Mục lục
Old 17-06-2009, 10:11  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Trong số chúng ta, ai cũng từng có tuổi thơ, lớn lên cùng truyện cổ tích.
Khi lớn lên, quá bận bịu với công việc, mấy ai còn nghĩ đến việc đọc truyện cổ tích mỗi tối nữa . Ngay cả trẻ con bây giờ cũng vậy, học suốt ngày, chúng lớn lên trong sự thiếu thốn những câu chuyện thần tiên.


Hãy để thế giới cổ tích luôn là một phần cuộc sống của mỗi người, bạn nhé

Mục lục



I.Truyện cổ Hans Christian Andersen:


1.Con chim hoạ mi
2.Cây lúa mạch
3.Cây thông
4.Con lợn ống tiền
5.Những bông hoa của cô bé Ida
6.Cô bé chăn ngỗng
7.Một bà mẹ
8.Đôi giày basket tự đi được
9.Cô bé tí hon
10.Giăng bị thịt
11.Con quỷ sứ của ông hàng tạp hoá
12.Em bé bán diêm
13.Nàng công chúa và hạt đậu
14.Đôi giầy đỏ
15.Anh chàng chăn lợn


II.Truyện cổ Grim


1.Những người khôn
2.Sáu con thiên nga(Dị bản)
3.Hoàng Anh và gấu
4.Hanxơ sắt
5.Hênxen và Grêten
6.Jôrinđơ và Jôgigơn
7.Nàng công chúa chăn ngỗng
8.Mèo làm thân với chuột
9.Mười hai người thợ săn
10.Người đầy tớ trung thành
11.Con quỷ nhốt trong lọ
12.Cô bé hai mắt
13.Ngôi nhà trong rừng
14.Lọ lem
15.Cô bé quàng khăn đỏ
16.Bà lão chăn ngỗng
17.Con thỏ biển
18.Chú Hanh lười biếng
19.Người da gấu
20.Chú bé nghèo dưới nấm mồ
21.Học rùng mình
22.Thỏ và Nhím
23.Gã thợ xay nghèo khó
24.Người thợ săn tài giỏi
25.Lên thiên đàng
26.Cây củ cải
27.Hai anh em
28.Ba sợi tóc vàng của quỷ
29.Cuộc ngao du của tí hon
30.Con rắn trắng
31.Ba cô chị
32.Đứa con vàng
33.Nàng Bạch Tuyết
34.Chú bé tí hon
35.Con mèo đi hia
36.Con quỷ và bà nó
37.Ả Grê-ten thông minh
38.Những món quà của người tí hon
39.Vua trộm



III.Truyện cổ thế giới


1.Sự tích con sư tử
2.Sự tích hoa chua me đất
3.Cô gái vàng
4.Sự tích cái yên ngựa
5.Truyền thuyết về trái Đào
6.Lâm Sanh Xuân Nương
7.Nhà họ Đường đả hổ
8.Hoa Phụng Tiên
9.Sự tích hoa phượng
IV.Truyện cổ Việt Nam



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Truyện cổ tích-Andersen
Old 17-06-2009, 10:12  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Con chim họa mi

Hans Christian Andersen



Ở Trung Quốc, nơi mà Hoàng đế là một người Trung Quốc và tất cả quần thần cũng là người Trung Quốc, các bạn hẳn cũng biết điều đó, đã có một câu chuyện.

Câu chuyện này xảy ra lâu lắm rồi, nhưng chính vì thế mà phải kể lại để người ta khỏi quên đi.

Cung điện của Hoàng đế đẹp nhất trần gian, làm bằng một loại sứ rất quý, nhưng dễ vỡ, mỗi khi chạm đến phải thật nhẹ tay, nhẹ chân. Trong vườn Thượng uyển trồng toàn những loại hoa quý, rất kỳ lạ, những bông hoa đẹp nhất phải đeo lục lạc bằng bạc để cho du khách khi đến xem phải lưu ý. Khu vườn được chăm sóc kỳ công và trải rộng, ngay người làm vườn cũng không biết đến đâu là hết. Càng đi càng gặp nhiều điều kỳ thú, những cây cao bóng cả vươn dài, những hồ rộng mênh mông sâu thẳm. Rừng thoai thoải xuống biển, trên làn nước xanh những con thuyền lớn có thể lướt dưới bóng cây. Nơi đây có con hoạ mi thường cất tiếng hót mê hồn. Một anh thuyền chài nghèo khổ lòng chứa chất bao nỗi lo toan dăng lưới đi qua, nghe tiếng chim hót cũng phải dừng lại nghe. Anh reo lên: "Trời ơi, Thánh thót biết bao".

Nhưng rồi mải mê với công việc, anh ta quên chim ngay. Đêm sau đi dăng lưới qua đấy, anh lại nghe tiếng chim hót: anh lại đứng lại nghe và lại reo lên: "Trời ơi, Thánh thót biết bao".

Khách tham quan từ nhiều nước trên thế giới kéo đến hoàng thành. Họ ca ngợi hoàng cung và vườn thượng uyển; nhưng khi nghe hoạ mi hót, họ đồng thanh reo lên: "Đấy mới là điều kỳ diệu".

Trở về quê hương, họ thuật lại những điều mắt thấy tai nghe. Nhiều học giả đã viết thành sách ca tụng hoàng thành, hoàng cung và vườn thượng uyển; nhưng người ta ca tụng hoạ mi nhiều hơn cả, những thi sĩ nổi tiếng đã làm những bài thơ kiệt tác để ca ngợi con chim hoạ mi hót hay trong khu rừng bên bờ biển. Sách được truyền đi khắp nơi, có quyển lọt vào tay Hoàng đế. Người chăm chú đọc, nhiều lúc gật đầu tán thưởng những đoạn văn hay ca tụng hoàng thành, hoàng cung và vườn thượng uyển.

Đọc tiếp, người thấy có đoạn viết: "Nhưng con chim hoạ mi mới thật là kỳ diệu!" Hoàng đế ngạc nhiên:

- Gì thế này? Con chim hoạ mi à? Sao ta lại không biết nhỉ? Có đúng là trong giang sơn ta; hơn nữa lại ngay trong vườn của ta, lại có một con chim như thế không? Ta chưa hề nghe nói bao giờ, lạ thật!

Hoàng đế truyền gọi quan thị lang là người cầm quyền cao chức trọng; mỗi khi có kẻ dưới đến trình báo hay thỉnh cầu điều gì, ngài chỉ trả lời cộc lốc: "Hớ!"

Hoàng đế phán hỏi:

- Ở đây chừng như có một con chim người ta gọi là hoạ mi. Thiên hạ cho rằng con chim này là loại chim quý hiếm. Vậy sao chưa thấy ai tâu với Trẫm?"

Quan thị lang thưa:

- Muôn tâu bệ hạ, chính hạ thần cũng chưa nghe thấy nói bao giờ và cũng chưa thấy ai đem đến tiến cử.

- Vậy ngay tối nay phải đem nó đến hót cho Trẫm nghe. Thiên hạ biết đến vật báu của Trẫm mà riêng Trẫm lại không biết!

Quan Thị Lang tâu:

- Muôn tâu bệ hạ, thực tình hạ thần chưa hề thấy con chim ấy, nhưng hạ thần xin đi tìm nhất định sẽ tìm được.

Nhưng tìm đâu? Quan Thị Lang đã leo lên khắp lầu son gác tía, qua khắp các cung điện và đường lối đi lại, gặp ai cũng hỏi, nhưng chẳng ai biết gì về chim hoạ mi cả.

Quan Thị Lang lại vào chầu hoàng đế:

- Tâu thánh thượng - Ngài nói - Có lẽ sách đã đánh lừa độc giả, xin bệ hạ đừng tin, đây chỉ là chuyện hoang đường.

Hoàng đế phán:

- Những sách ta xem là những sách của Hoàng đế Nhật Bản gửi tặng, lẽ nào lại là chuyện bịa đặt? Trẫm muốn được nghe chim hoạ mi hót ngay tối nay. Trẫm sẽ ban thưởng cho chim nhiều ân huệ. Nếu không đưa được hoạ mi đến thì cả triều đình sẽ bị phạt giẫm lên bụng sau khi ăn cơm no.

Quan Thị lang cúi chào Hoàng thượng ra về. Rồi ngài chạy tới chạy lui, leo lên leo xuống, khắp cả lầu son gác tía, vào khắp các phòng trong hoàng cung, sục sạo mọi ngõ ngách, một nửa triều thần cũng làm như thế, vì chẳng ai muốn chịu tội giẫm lên bụng. Rõ là một cuộc chạy đua loạn xạ để tìm một con chim cả thiên hạ biết tiếng chỉ trừ Hoàng đế và đình thần.

Cuối cùng họ vớ được một cô bé thị tì.

- Trời ơi! - Cô bé kêu lên - Con chim hoạ mi! Cháu biết! Nó hót hay lắm! Chiều nào mang cơm thừa cho mẹ đang ốm, lúc về mỏi chân đứng nghỉ trong rừng, cháu cũng được nghe nó hót. Những lúc ấy cháu thấy sung sướng đến chảy nước mắt như khi được mẹ cháu ôm hôn vậy.

Quan Thị lang nói như reo:

- Cháu bé ngoan lắm! Cháu hãy đưa ta đến chỗ hoạ mi đậu, ta sẽ ban cho cháu một chức vị ở trong nhà bếp và cho phép cháu được vào xem Hoàng đế ngự thiện. Cháu cần đi ngay vì tối nay đã phải đem chim đến hót cho Hoàng đế nghe.

Cả một nửa triều đình theo con bé thị tì vào rừng nơi có hoạ mi hót. Dọc đường bỗng nghe tiếng bò rống, một thị đồng reo lên: Hoạ mi đấy! Chim gì mà lớn tiếng thế! Hình như tôi đã được nghe ở đâu rồi!

Nữ tì nói:

- Không phải đâu! Bò rống đấy! Còn phải đi lâu mới tới!

Lúc sau lại có tiếng ì uôm của một con ễnh ương ở trong ao. Pháp tăng trong triều cũng đi theo đoàn reo lên:

- Hoạ mi đấy! Nghe sao mà thánh thót thế! Chưa bao giờ bần tăng được nghe một giọng chim hót hay như thế!

Nữ tì nói:

- Không phải đâu! Đấy là ễnh ương!

Đi thêm một quãng, thị tì bảo mọi người:

- Hãy im lặng mà nghe! Nó đấy! Hoạ mi đấy - Thị tì nói và chỉ một con chim nhỏ lông xám đang đậu trên một cành cây.

Quang Thị lang ngạc nhiên:

- Hoạ mi đấy à? Ta cứ tưởng nó đẹp kia chứ? Bộ lông nó trông tầm thường quá! Hay là trước mặt đông đủ quần thần nó sợ, tái sắc đi?

Thị tì cất tiếng gọi:

- Hoạ mi ơi! Hoàng đế muốn nghe hoạ mi hót đấy.

- Rất vui lòng! - Hoạ mi trả lời.

Và cất tiếng hót thánh thót mê hồn.

Quan thị lang khen:

- Nghe trong như những tiếng nhạc bằng pha lê. Cái cổ họng nó xinh xắn cứ phập phồng. Thế mà chưa bao giờ được nghe hoạ mi hót cũng tiếc thật. Vào hoàng cung chắc nó sẽ được triều đình và hoàng gia nhiệt liệt hoan nghênh.

Tưởng hoàng đế có mặt ở đấy, hoạ mi hỏi:

- Tôi có phải hót lần nữa cho thánh thượng nghe không?

Quan thị lang nói:

- Hoạ mi ơi! Người hãy theo chúng ta về cung hót cho Hoàng đế mê say.

- Giọng hót của tôi ở chốn rừng này, dưới vòm cây này, mới là hay nhất.

Hoạ mi nói thế, nhưng khi biết Hoàng đế muốn nó đến hót tại hoàng cung, nó cũng vui lòng đi theo.

Ở hoàng cung người ta đã chuẩn bị tiếp thật long trọng.
Hàng ngàn cây đèn bằng vàng sáng chói trên sân rồng và trên các bệ bằng sứ. Hàng hiên rực rỡ những chậu hoa hiếm thấy, chuông bạc ngân vang mỗi khi gió thoảng nhẹ.
Chính giữa đại diện, nơi Hoàng đế ngự có để sẵn một cành cây bằng vàng cho chim đến đậu. Văn võ bá quan tề tựu đông đủ; cả cô thị tì mới được phong chức đầu bếp, cũng được phép đến nấp nghe sau cánh cửa. Các quan đều mặc phẩm phục, chăm chú chiêm ngưỡng con chim màu xám đang líu lo trên cành vàng.

Hoạ mi hót hay đến nỗi Hoàng đế xúc động, sụt sùi, nước mắt giàn giụa. Người rất hài lòng, truyền đeo chiếc thẻ bà bằng vàng vào cổ chim để thưởng công. Nhưng hoạ mi khước từ nói:

- Như thế này là vinh dự cho tôi lắm rồi! Được thấy những giọt nước mắt của Hoàng đế nhỏ khi nghe tôi hót là một ân huệ lớn đối với tôi.

Hoạ mi lại cất tiếng hót êm đềm thấm thía như để tạ ơn.

Các bà phu nhân thì thào với nhau:

- Không còn gì tuyệt bằng.

Có bà còn ngậm tí nước vào miệng, khẽ lấy giọng ro ro trong cổ bắt chước tiếng chim. Trong bụng nghĩ cứ làm như thế giọng các bà sẽ biến thành giọng hoạ mi.

Ngay cả các nữ tì, thị vị, những người khách khó tính nhất cũng nhiệt liệt ca ngợi giọng hót của hoạ mi.

Như vậy hoạ mi được cả triều đình và hoàng gia ca ngợi.
Hoàng đế truyền ban cho hoạ mi một chiếc lồng sơn son treo trong cung, chim được phép ra ngoài mỗi ngày hai lần mỗi đêm một lần. Mỗi khi ra ngoài chim được mười hai quan hầu đi theo, mỗi người nâng một sợi tơ buộc vào chân chim. Kiểu du ngoạn như vậy, hoạ mi chẳng thích thú gì.
Cả kinh thành náo nức về con chim. Ai đẻ con cũng muốn đặt tên là hoạ mi, kể cả những đứa có giọng khàn khàn.
Một hôm Hoàng đế nhận được một gói gửi đến bên ngài đề hai chữ "Hoạ mi".

Hoàng đế mở gói, bụng nghĩ chắc lại là một quyển sách nói về chim Hoạ mi.

Nhưng không phải. Trong gói lại là một con hoạ mi nhân tạo, giống hệt con hoạ mi thật, mình, dát đầy kim cương, ngọc xanh ngọc đỏ. Hễ vặn máy chim lại hót lên như hoạ mi thật, cái đuôi vẫy vẫy óng ánh sợi vàng sợi bạc. Cổ chim hoạ mi đeo một cái vòng, trên khắc dòng chữ:

"Tôi là hoạ mi của Hoàng đế Nhật Bản, tôi chưa sánh được với Hoạ mi của hoàng đế Trung Hoa".

Cả triều đình reo lên:

- Tuyệt quá!

Hoàng đế phong cho người mang hoạ mi giả một chức vị cao và ban thưởng.

Triều thần có người bàn cho hai con chim cùng hót, để được nghe một bản song ca của hai con chim hoạ mi tuyệt diệu.

Người ta đã thử nhưng không được, vì con chim hoạ mi thật hót một kiểu riêng của nó, còn hoạ mi giả cứ hót theo nhịp ba.

Quan chưởng nhạc đã biện hộ cho hoạ mi máy nói rằng nó hót không sai đâu, rất đúng nhịp, tôi cũng thường dạy trên lớp như thế.

Nghe quan chưởng nhạc nói vậy, người ta bèn cho chim giả hót một mình. Nó hót rất hay, chẳng kém gì chim thật, lại đẹp nữa, lúc nó hót cứ lóng lánh như nạm kim cương.

Nó có thể hót thông luôn một lúc ba mươi lần mà vẫn hay, người nghe không thấy chán, vẫn cứ muốn nghe nữa.

Nhưng Hoàng đế truyền để chim thật hót một lúc.
Nhưng nhìn trước nhìn sau chẳng thấy chim thật. Thì ra trong lúc mọi người mải mê nghe chim giả hót thì chim thật đã bay về chốn rừng xanh.

Hoàng đế sửng sốt:

- Thế là thế nào?

Quần thần tỏ vẻ tức giận, kết tội chim vong ân bội nghĩa. Cũng có người an ủi như vậy còn là may vì còn giữ được con hay nhất.

Thế là chim giả lại phải hót, có một bài mà nó cứ hót đi hót lại đến mấy chục lần.

Quan chưởng nhạc hết lời ca tụng chim máy, quan quả quyết nó hơn hẳn chim thật, không chỉ vì nó có bộ lông đẹp mà chính vì tài nghệ của nó.

- Muôn tâu bệ hạ - quan chưởng nhạc trình lên Hoàng đế - với con chim thật, chẳng ai biết được nó sẽ hót bài gì; nhưng với con chim máy thì các bài hót được sắp xếp theo một trật tự nhất định, cứ mở máy các bài sẽ lần lượt hót lên. Cứ việc tháo máy ra, xem các bánh xe sắp đặt thế nào thì hiểu được cách chuyển động của máy và cách phát ra tiếng hót.

Mọi người tán thành ý kiến của quan chưởng nhạc.
Hoàng đế phán rằng phải để dân chúng được nghe chim máy hót, nên chủ nhật quan Chưởng nhạc đem chim máy cho dân chúng nghe.

Dân chúng được nghe hoạ mi hót, ai cũng tấm tắc khen, sau mỗi bài mọi người lại chỉ tay lên trời, lắc đầu kêu "ồ"!
Nhưng có một anh thuyền chài nghèo, đã nhiều lần được nghe hoạ mi hót, lại nói như thế này.

- Khá hay đấy! Khá giống hoạ mi thật đấy! Nhưng nghe như còn thiếu một cái gì ấy.

Vậy là chim thật đã ra khỏi hoàng cung; chim máy được đưa lên địa vị độc tôn.

Người ta đặt nó trên một đệm gấm, bên cạnh giường ngự, xung quanh xếp đầy những bội tinh, châu báu, vàng ngọc là những thứ chim được ban thưởng. Nó được hoàng đế phong cho chức tước cao quý. Về ngôi thứ lâm triều, chim được xếp hàng đầu, bên trái, là thứ bậc cao nhất triều đình.

Quang chưởng nhạc viết một pho sách mười lăm chương ca tụng chim hoạ mi máy, lời lẽ uyên bác, cao siêu. Ai đọc bộ sách ấy cũng gật gù tỏ ra thông hiểu, để khỏi mang tiếng dốt nát.

Sau một năm, Hoàng đế ,triều thần, và cả nước đều thuộc lòng những bài do chim máy hót. Người ta có thể đồng ca với chim. Từ Hoàng đế đến chú bé ngoài phố cũng biết hót.
Rõ thật là hay!

Nhưng một hôm, chim máy đang hót cho Hoàng đế nghe thì bỗng có tiêng kêu đánh sạch trong bụng chim. Dường như có cái gì bị gẫy, các bánh xe quay loạn xạ nghe xoàn xoạt, rồi chim ngừng hót.

Hoàng đế truyền gọi quan ngự y đến bắt mạch chữa cho chim. Nhưng quan ngự y từ chối vì không thuộc chuyên môn của người. Triều đình phải cho gọi một thợ chữa đồng hồ đến. Anh thợ đồng hồ tháo tung cỗ máy xem xét nói rằng các bánh xe mòn nhiều, không có đồ thay; chỉ có thể lắp lại dùng tạm, mỗi năm chỉ được cho chim hót một lần. Nghe tin thần dân cả nước bàng hoàng. Tiếng chim máy hót bây giờ nghe rèn rẹt, nhưng quan chưởng nhạc vẫn khăng khăng rằng tiếng chim máy hót vẫn du dương như trước.

Năm năm sau, nhân dân trong nước nghe một tin dữ. Hoàng đế muôn vàn kính yêu của họ lâm bệnh nặng, không cứu chữa được. Đình thần đã chọn người kế vị. Dân chúng nhớn nhác đến dinh quan thị lang hỏi thăm tin tức.

Hoàng đế tái ngắt, giá lạnh trong long sàng. Văn võ bá quan tưởng người đã băng hà rối rít, xun xoe quanh vị vua mới. Tróng khi đó thị vị và nữ tì vui chơi, thoả thích chuyện gẫu và uống nước chè.

Hoàng đế đáng thương đang hấp hối, người chỉ còn thoi thóp thở.

Cảm thấy có vật gì đè lên ngực, người mở mắt và nhìn thấy thần chết đang cười với người. Thần chết đã lột mũ miện của người, một tay cầm xạ kích một tay cầm hoàng kỳ. Từ các nếp màn che quanh long sàng ló ra những cái đầu lâu kỳ quái; có những cái trông gớm ghiếc, lại có những cái trông nhân từ. Đó là công đức và tội lỗi của Hoàng đế hiện về trong khi thần chết đè nặng lên trái tim người.

- Còn nhớ không? Nhà vua còn nhớ không?

Cái đầu lâu lần lượt hỏi tội nhà vua. Chúng kể ra không biết bao nhiêu là tội, khiến nhà vua toát hết cả mồ hôi và kêu lên:

- Nhưng ta đâu có biết những chuyện ấy?

Rồi ngài hô:
- Cử nhạc lên! Khua trống cái lên! Ta không muốn nghe những lời ma quái nữa!

Mặt ma vẫn cứ trơ trơ, còn thần chết thì vẫn lắc lư cái đầu.

Hoàng đế lại thét lên:

- Cử nhạc! Cử nhạc mau! Chim vàng thân yêu! Hãy hót đi! Hót lên! Ta sẽ ban thưởng cho người vàng bạc, châu báu và chiếc bài vàng. Hót lên! Hót lên đi!

Nhưng chẳng có ai vặn máy, nên chim cứ im lìm. Còn thần chết thì vẫn giương đôi mắt thao láo, trống hốc, nhìn chằm chằm Hoàng đế.

Giữa lúc đó, từ ngoài cửa sổ nổi lên tiếng hót tuyệt vời. Chim hoạ mi bé nhỏ đã từ rừng xanh bay về đậu trên cành cây ngoài vườn. Nghe tin Hoàng đế ốm nặng, chim đã bay về mang lại cho người nguồn sinh lực bằng tiếng hót của mình.

Tiếng hót của hoạ mi vang lên, bóng ma tan dần, máu lại lưu thông trong huyết quản của nhà vua. Thần chết cũng phải lặng đi trước tiếng hót của hoạ mi, rồi lại khuyến khích:

- Cứ hót đi! Hoạ mi! Cứ hót đi!

- Được! nhưng phải trao lại kiếm vàng và mũ miện cho Hoàng đế!

Sau mỗi bài hót của chim, thần chết lại trao trả một bảo vật. Chim tiếp tục hót, ca ngợi cảnh thanh bình nơi nghĩa trang đầy hoa thơm, cỏ lạ. Thần chết không cầm nỗi lòng mong muốn trở lại khu vườn của mình, đã hoá thành một đám mấy trắng bay qua cửa sổ và biến mất.

Hoàng đế reo lên:

- Cảm ơn chim! Cảm ơn chim yêu quí! Ta đã nhận ra hoạ mi rồi. Ta đã vô tình để chim ra khỏi hoàng cung, vậy mà chim vẫn quay về, lại giúp ta xua đuổi tà ma, cứu ta ra khỏi tay thần chết. Ơn ấy không bao giờ ta quên.

Hoạ mi đáp:

- Nhà vua ban thưởng cho chim nhiều rồi. Những giọt nước mắt, nhà vua nhỏ lần đầu tiên nghe chim hót, chim không bao giờ quên cảnh tượng ấy. Đối với một ca sĩ, không có vàng bạc châu báu nào quý giá bằng. Bây giờ xin Hoàng đế yên nghỉ để hoạ mi hót cho người nghe cho mau bình phục.
Rồi hoạ mi lại hót, hoàng đế lại thiếp đi trong giấc ngủ hồi sinh êm đềm.

Lúc ánh bình minh chiếu qua cửa sổ rọi tới long sàng, nhà vua tỉnh giấc trong người sảng khoái vô cùng. Chung quanh chẳng có ai đến hầu, vì họ yên trí vô nhà vua đã băng hà. Duy chỉ có hoạ mi vẫn một mình líu lo bên cạnh Hoàng đế.
Hoàng đế bảo chim:

- Từ nay hoa mi luôn ở bên ta để hót cho ta nghe, còn con chi giả ta sẽ đập tan thành trăm mảnh.

Hoạ mi vội can:

- Xin nhà vua đừng làm như vậy. Chim máy đã làm hết sức của nó, nên giữ nó lại. Còn tôi, tôi không quen sống trong hoàng cung. Xin nhà vua cho phép tôi về rừng, chiều chiều tôi sẽ bay lại đây, đậu trên cành cây, trước cửa sổ này để hót cho nhà vua nghe. Chim sẽ hót lên cuộc đời của những kẻ sung sướng nhưng cuộc đời cũng như cuộc đời của những người đau khổ. Chim sẽ hót lên những điều tốt cũng như những điều xấu người ta chung quanh nhà vua. Tiếng hót của hoạ mi bé nhỏ này sẽ lọt tới những người dân chài nghèo khổ, của những nông dân bần hàn, đến tận những nơi xa hoàng đế và triều đình. Hoạ mi kính trọng tấm lòng nhà vua hơn cả ngai vàng, mặc dầu ngai vàng là biểu hiện thiêng liêng.

Chim sẽ đến, sẽ hót, nhưng chỉ xin nhà vua một điều:

- Chim muốn xin gì trẫm cũng ban - nhà vua nói và đứng dậy ghi chặt thanh kiếm nạm ngọc quí vào ngực.

- Chim chỉ xin bệ hạ một điều là đừng nói cho bất cứ ai biết rằng bệ hạ có một con chim nhỏ đã tâu lên cho bệ hạ biết tất cả mọi điều. Như thế mọi việc sẽ êm đẹp.

Nói rồi chim cất cánh bay đi.

Lúc ấy triều thần bước vào. Họ yên trí hoàng đế đã băng hà. Nhưng mọi người sửng sốt thấy nhà vua đứng dậy quay về phía họ mà phán rằng:

- Chào các ngươi!



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:14  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Cây lúa mạch



Hans Christian Andersen




Nếu bạn đi qua cánh đồng lúa mạch sau cơn bão bạn sẽ thấy lúa đen như thể là bị cháy. Tôi sẽ kể cho bạn nguyên nhân lúa bị đen, qua câu chuyện một chú chim sẻ, chú ta đã nghe từ lời kể của một ông liễu già mọc ở gần cánh đồng ngô và lúa mạch.

Ông liễu này cao và rất được coi trọng, nhưng vào thời điểm ấy ông đã già cỗi, nhăn nheo. Thân cây bị chẻ làm đôi, cỏ cây mâm xôi mọc len vào kẽ nứt; ông liễu ngã ra phía trước và các cành lá của ông xõa xuống mặt đất như một mái tóc xanh dai. Có nhiều cây ngô tốt sống trên cánh đồng, quây cây lúa mạch. Những bắp ngô được nuôi dưỡng tốt và bắp càng mập bao nhiêu thì lại vít cây nằm ngả xuống bấy nhiêu. Lúa mạch ta vốn kiêu ngạo nên cứ ngẩng thẳng và vươn cao đầu lên. Nó nghĩ thầm: "Mình có khối bắp vàng như cây ngô. Mình còn đẹp hơn hẳn hắn ta nhiều. Những bông hoa của mình đẹp như những nụ táo vậy...". Thế rồi, Lúa mạch nói:

- Này bác liễu già, bác đã từng thấy cái cây nào đẹp như tôi chưa hả?

Ông liễu gật đầu.

Lúa mạch la lên:

- Cái lão thật dớ dẩn. Lão ta già quá rồi. Cỏ mọc cả vào trong óc lão rồi.

Và chợt một cơn bão ập đến. Đám hoa trên cánh đồng xếp cánh lại và cúi gập những ngọn đầu xinh xinh. Lúa mạch ta vẫn kiêu ngạo vươn cao cổ lên. Những bông hoa bảo nó:

- Hãy cúi đầu xuống như chúng tôi đi.

Lúa mạch đáp:

- Không thể được tôi sẽ chẳng chịu cúi đầu.

Ông liễu già bảo:

- Hãy xếp những cánh hoa và xếp gọn lá vào. Đừng có nhìn vào các tia chớp kẻo lại nhìn thấy thiên đàng sớm. Ngay kể cả con người cũng mù nếu họ nhìn vào tia chớp. Nếu bọn ta vươn đầu lên thì cái gì sẽ xảy ra với đám cỏ dại chúng mình?

Lúa mạch kêu lên khinh bỉ:

- Cỏ dại! Quả thật! Tôi chẳng sợ nhìn lên trời.

Trong giây phút ấy cả thế giới như chìm trong bão tố và tia chớp lửa.

Ngay sau đó, cơn bão đã đi qua, rồi sau một trận mưa mọi vật mới ngọt ngào làm sao. Những bông hoa dại ngẩng lên hít thở khí trời, những cây ngô lại đung đưa theo chiều gió. Chỉ có cây lúa mạch nằm xoài trên đất héo tàn, cháy đen. Ông liễu già lắc đầu. Một giọt nước to rơi xuống từ đám lá liễu như thể ông liễu già đang khóc. Những chú chim sẻ líu lo:

- Tại sao ông lại khóc, ông không thấy sự tươi mát của hoa và lá sao?

Ông liễu già kể lại sự việc xảy ra với cây lúa mạch kiêu ngạo và tôi nghe được câu chuyện này từ các chú chim sẻ vào cái buổi tối mà tôi gợi chuyện với chúng.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:16  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Cây thông





Hans Christian Andersen



Một cây thông non xinh tươi mọc trong rừng. Thông mọc chỗ có nắng và quang đãng. Khắp chung quanh có nhiều cây thông khác lớn hơn. Thông non ta cũng muốn lớn bằng những cây ấy.

Thông non rất ghét các trẻ con trong làng vừa bi ba bi bô vừa đi qua đi lại để hái quả dâu, rồi lúc trở về, tay xách giỏ dâu, ngồi gần gốc thông mà khen : “Ồ ! Cây thông non xinh quá”.

Nó không thích người ta gọi nó là “thông non”. Năm sau nó lớn thêm một đốt, mọc thêm được một cành, năm sau lại thêm một lớp cành nữa; các bạn hẳn cũng đã biết là như thế chỉ cần đếm các lớp cành là cũng đủ nhận ra tuổi một cây thông.

Cây thông non thở dài:

- Ôi ! Giá ta cũng to lớn bằng những cây khác nhỉ ! Lúc ấy ta sẽ vươn nổi các nhánh rất xa ra xung quanh và từ trên ngọn ta có thể ngắm nhìn khắp đồng quê. Chim chóc sẽ đến làm tổ trên các cành của ta và khi gió thổi ta cũng sẽ nghiêng mình một cách đường bệ như các cây khác.

Bởi vậy thông non của chúng ta không thích bất cứ một thứ gì, từ nắng ấm cho đến chim chóc, thậm chí cái đám mây hồng sáng chiều bay qua trên ngọn thông.

Đông đến, bốn bề toàn là tuyết trắng phau lấp lánh. Một con thỏ rừng chạy ngang qua, nhảy vọt qua ngọn thông non: thông ta lấy làm nhục lắm.

Nhưng qua hai mùa đông nữa thông non của chúng ta lớn đến mức lũ thỏ đành phải chạy vòng quanh.

Nó lớn lên, lớn mãi, trở nên cao và già. Trên đời này, còn gì đẹp cho bằng, thông non vẫn đinh ninh như thế.

Hàng năm cứ đến mùa thu các bác tiều phu lại vào đốn ít cây to nhất.

Cây thông non bây giờ đã khá to; nó suy nghĩ về số phận những cây to và đẹp đang đổ xuống đất rầm rầm. Người ta chặt cành và bóc vỏ đi, cây thành ra dài và thon, không nhận ra được nữa. Sau đó, người ta đặt cây lên xe ngựa, chở ra khỏi rừng.

Cây đi đâu thế nhỉ ? Số phận cây rồi sẽ ra sao đây? Đến mùa xuân, khi cò và chim nhạn bay trở về, thông non trước kia của ta hỏi :

- Các bạn có biết người ta mang những cây to đi đâu không? Các bạn có gặp các cậu ấy không ?

Chim nhạn chẳng hề biết, nhưng một con cò có vẻ đứng đắn, gật gù đáp:

- Có lẽ tôi biết đấy! Tôi đã gặp rất nhiều tàu bè mới tinh từ Ai Cập về. Cột buồm những tàu ấy rất lộng lẫy, và tôi ngửi thấy thơm thơm, hình như gỗ thông thì phải.

- Chao ôi! Ước gì tôi đủ sức lớn để cũng được bồng bềnh trên mặt biển. Biển ấy như thế nào nhỉ?

- Nói ra thì dài dòng lắm. Cò đáp rồi bay đi.

Những tia mặt trời bảo thông :

- Cậu hãy vui sướng với cái tuổi trẻ của cậu. Hãy tận hưởng chất nhựa tươi tắn và tuổi thanh xuân của cậu!

Gió hôn thông và sương trang điểm cho thông những hạt lóng lánh như ngọc, nhưng thông chẳng xúc động mảy may trước sự chăm sóc ấy.

Gần đến lễ Noel, người ta đến chặt nhiều cây con, bé và non hơn cây thông của chúng ta, lúc này chỉ muốn rời bỏ cánh rừng. Các cây non ấy cành lá lưa thưa nên người ta để nguyên lên xe ngựa chở ra khỏi rừng.

Thông ta tự hỏi:

- Chúng đi đâu thế nhỉ ? Chúng chẳng lớn gì hơn ta, có một cây còn bé hơn ta nữa kia. Sao người ta lại giữ cả cành và đem chúng đi đâu thế ?

Đàn chim sẻ chiêm chiếp:

- Chúng tớ biết ! Chúng tớ biết ! Chúng tớ đã nhìn qua cửa kính các nhà trong thành phố. Chúng tớ biết người ta đem cây non đi đâu. Người ta mang chúng đến những nơi hội hè, tưng bừng không thể tưởng tượng được. Nhìn qua cửa kính, chúng tớ thấy người ta trồng chúng vào giữa một gian phòng ấm áp, trang điểm cho chúng bằng những vật đẹp nhất, nào táo, nào bánh ngọt, các thứ đồ chơi và hàng mấy trăm ngọn nến.

- Sao nữa ? – Thông vừa hỏi vừa rung lên, rung cả cành lẫn lá. Sao nữa? Sau rồi thế nào?

- À, chúng tớ chỉ biết có đến thế thôi! Thật là huy hoàng!

Thông lẩm bẩm:

- Số mình không được hưởng cái tương lai sáng lạn ấy hay sao? Còn thích hơn là đi biển nhiều. Ôi ! Giá bây giờ lại là lễ Noel nhỉ? Nay mình đã lớn chẳng kém gì những cây được người ta đem đi năm ngoái. Ôi! Giá mình được lên xe, được trồng trong căn phòng ấm áp, giữa những vật huy hoàng ấy! Nhưng sau đó sẽ ra sao? Hẳn là sẽ có gì nữa, nếu không thì người ta trang điểm cho cây như thế để làm gì? Phải, nhất định sẽ có cái gì tuyệt hơn. Không gì khổ bằng chờ với đợi! Nóng ruột quá đi mất.

Gió hiu hiu và ánh nắng bảo thông: “Hãy vui thú với chúng ta. Hãy bằng lòng với tuổi thanh xuân mơn mởn, với bầu trời khoáng đãng!”

Thông chẳng vui lòng chút nào. Nó lớn lên, lớn lên mãi, mùa hè cho chí mùa đông, cành lá lúc nào cũng đẹp một màu xanh thẫm, ai trông cũng khen: “Cây thông đẹp quá!” và trước lễ Noel mấy ngày người ta chặt nó trước tiên. Lưỡi rìu chặt đứt cây đến tận lõi, cây thốt ra một tiếng thở dài rồi đổ xuống. Nó đau đớn đến nỗi không còn mơ tưởng đến một chút hạnh phúc nào nữa. Nó nhớ tiếc chỗ nó mọc, nơi nó đã lớn lên. Nó biết rằng từ nay trở đi chẳng bao giờ nó còn được gặp lại các bạn cũ thân mến của nó, các bụi cây, bụi hoa mọc xung quanh nó, và biết đâu đấy? Có thể là ngay đến một con chím nó cũng không được gặp lại. Đúng, nó ra đi mà lòng không vui.

Cây thông của chúng ta bừng tỉnh trong sân nhà, nơi nguời ta, lôi nó ra khỏi xe cùng với các bạn khác của nó.

Nó nghe thấy một người lên tiếng: “Cây này đẹp đấy! Tớ đang cần một cây như thế này!”

Rồi có hai người hầu mặc đồng phục đến khiêng nó vào một gian phòng rộng rãi đẹp đẽ. Khắp xung quanh có những bức chân dung trên tường và trên chiếc lò sưởi lớn bằng sứ có hai lọ độc bình Trung Quốc chạm trổ đầy những rồng và hoa thếp vàng.

Lại còn có những cái ghế bành tuyệt đẹp, những ghế trường kỷ bọc lụa, những chiếc bàn lớn chứa đầy sách và đồ chơi quý giá, đáng hàng mấy trăm mấy nghìn đồng tiền vàng.

Cấy thông được đặt vào một cái thùng đầy cát, nhưng người ta không thể nào biết rằng đấy là một cái thùng gỗ vì xung quanh có rèm xanh phủ kín. Thông ta không nén nổi cảm động. Rồi sao nữa đây? Các cô gái và bạn đầy tớ bắt tay vào trang điểm cho thông. Họ treo những cái bao dài nhỏ bằng giấy màu xanh đựng đầy kẹo lên cành thông.

Những quả hạt dẻ và táo vàng trĩu xuống như mọc từ cành thông ra. Rồi sau họ cắm những cây nến trắng xanh đỏ, đặt những con búp bê nom như người thật lên các cành; tất cả những thứ đó thông ta chưa được nhìn thấy bao giờ. Chót vót trên ngọn thông họ cắm một ngôi sao lớn bằng giấy tráng kim tuyệt đẹp. Xung quanh thông mọi người đều reo lên:

- Đến tối tất cả sẽ sáng rực lên phải biết!

Thông ta tự nhủ:

- Ồ! Sao cho chóng đến tối nhỉ? Đèn nến thắp lên thì phải biết! Rồi còn gì nữa nhỉ? Giá các cây trong rừng đến được đây mà ngắm ta! Có lẽ lũ chim cũng sẽ đến ngắm ta qua cửa kính đấy. Liệu đông qua, hạ tới, ta có được trồng ở đây mãi với tất cả trang sức này không?

Thế là nó đã đoán ra được việc sẽ xảy ra sau này, nhưng vì quá sốt ruột, nó cảm thấy các lá đều nhức nhối, đối với một cây thông nhức lá cũng khó chịu như chúng ta nhức đầu.

Sau cùng, người ta thắp nến lên. Sáng quá, huy hoàng quá! Sung sướng, thông ta rùng mình đến tận các cành nhỏ, đến nỗi một ngọn nến bắt lửa vào một cành cháy khét lèn lẹt.

- Trời ! – các cô gái kêu lên và lao vào dập lửa.

Thông ta không dám rùng mình nữa, chỉ sợ hỏng mất đồ trang sức. Nó long lanh sáng rực lên.

Cửa ra vào bỗng mở toang ra và một lũ trẻ con ùa vào dường như muốn xô đổ cây thông. Người lớn điềm tĩnh theo sau. Lũ trẻ con dừng lại, lặng đi ngắm nghía cây thông, nhưng sau một lát chúng lại vui cười ầm ĩ và bắt đầu nhảy vòng tròn xung quanh gốc cây. Những đồ chơi dần dần bị lấy tuốt cả. Thông ta tự hỏi : “Chúng làm gì thế này? Sắp có chuyện gì chả biết được?”

Nến đã tàn và khi cháy gần hết người ta bèn tắt đi. Lúc ấy trẻ con được phép phá cây Noel, chúng ùa vào làm các cành thông gãy răng rắc. Nếu không được chôn chặt ắt là thông ta đã đổ nhào.

Sau đó lũ trẻ con nhảy múa với những đồ chơi xinh đẹp của chúng, chẳng đoái hoài gì đến thông nữa. Chỉ có mỗi bà vú già đến nhìn ngó các cành, nhưng chỉ để tìm xem có cái kẹo hoặc quả táo nào còn sót lại chăng.

- Kể cho chúng cháu nghe một chuyện! Kể cho chúng cháu nghe một chuyện! - Bọn trẻ con vừa reo vừa kéo một người thấp béo đến ngồi dưới gốc thông. Người ấy nói:

- Thế là chúng mình ngồi giữa cành lá xanh tươi và chắc thông cũng thích. Nhưng chỉ kể một chuyện thôi nhé! Các cháu có thích nghe chuyện Ivet Aval hay chuyện Klumpê Đumpê ngã thang gác nhưng vẫn trèo được lên ngôi vua và được lấy công chúa không?

Đứa thì kêu:

- Ivet Avet.

Đứa thì kêu :

- Klumpê Đumpê.

Chúng làm ồn lên. Riêng cây thông vẫn đứng im và tự hỏi:

- Họ không đếm xỉa gì đến mình nữa à? Không cần đến mình nữa chắc?

Ông già kể chuyện Klumpê Đumpê, bọn trẻ con vừa vỗ tay vừa la: “Nữa ! Nữa !” Chúng còn muốn nghe cả chuyện Ivet Avet, nhưng chỉ được nghe có mỗi một chuyện Klumpê Đumpê. Thông ta trầm lặng suy nghĩ, chim chóc trong rừng chưa bao giờ kể cho nó nghe một chuyện nào giống như chuyện Klumpê Đumpê bị ngã thang gác, nhưng vẫn lấy được công chúa, Thông nghĩ thầm:

- Ừ phải! Ở đời này cũng có thế thật. Chuyện ông cụ kể chắc là không ngoa, có vẻ thật lắm. Biết đâu đấy? Có thể mình cũng sẽ rơi xuống cầu thang, để rồi sẽ lấy được một nàng công chúa.

Nó khấp khởi mừng thầm và tưởng tượng đến ngày hôm sau trên người nó sẽ lại mắc đầy nến, đồ chơi, giấy tráng kim và hoa quả.

Nó tự nhủ:

- Đến mai mình sẽ không run nữa. Mình sẽ tràn trề hạnh phúc. Đến mai mình sẽ lại được nghe chuyện Klumpê Đumpê và có lẽ cả chuyện Ivet Avet nữa.

Đêm hôm ấy, nó lặng lẽ mơ màng.

Sáng ra, bọn hầu gái bước vào, thông ta hí hửng:

- A! Lại bắt đầu mở hội đây.

Nhưng không! Người ta khiêng nó ra khỏi phòng để đưa lên một cái kho trên gác, quẳng vào một xó tối như bưng.

Thông nghĩ thầm:

- Thế này là thế nào? Đến chốn này thân mình sẽ ra sao nhỉ? Lần này mình sẽ được nghe kể chuyện gì nhỉ?

Rồi nó dựa vào vách mà mơ màng.

Ngày tháng trôi qua, chẳng có ma nào trèo lên nhà kho và nếu có người lên đến nơi cũng chỉ là để đem vứt vào đấy những chiếc hòm lớn. Thông ta đành phải tin là mình đã bị quên hoàn toàn.

Nó tự nhủ:

- Ngoài kia, đông đã đến nơi rồi. Đất đã cứng ra và phủ đầy tuyết. Giờ thì người ta không đem trồng mình được nữa rồi. Tất nhiên là mình phải ở đây đến tận mùa xuân. Tất cả đều tuyệt mỹ và loài người cũng tốt thôi. Giá cái kho gớm ghiếc này đỡ tối một chút thì hay quá! Chẳng có lấy một chú thỏ nào! Trong rừng khi tuyết rơi và đàn thỏ chạy ngang qua thật là vui… thế mà hồi đó mình lại đâm cáu khi chúng nhảy qua ngọn mình. Chốn này quả là hoang vu đáng sợ.

- Chít ! Chít - Một con chuột nhắt vừa kêu vừa nhảy nhót đến gần thông, rồi một con nữa theo sau, cả hai đều đánh hơi rồi trèo lên cành thông. Chúng xuýt xoa:

- Rét đâu mà khiếp thế. Nếu không rét thì ở đây cũng sướng đấy chứ, phải chăng bác thông già?

Thông đáp:

- Ta đâu đến nỗi già, còn có khối kẻ già hơn ta.

- Thế bác ở đâu đến đây? Bác biết gì nào? Hãy tả những danh lam thắng cảnh trên trái đất cho chúng tôi nghe. Bác đã đi đến những nơi đó chưa? Bác đã được đến cái chạn đựng đầy phó mát trên các ngăn, có đùi lợn sấy lủng lẳng treo trên nóc, nơi có thể khiêu vũ trên những cây nến làm bằng mỡ, nơi mà khi vào thì gầy, khi ra thì béo nung núc không?

- Không, ta không biết nơi ấy. Nhưng ta biết cánh rừng có mặt trời lấp lánh và chim muông ca hát.

Thông kể cho chuột nhắt nghe cuộc đời niên thiếu của mình. Chưa bao giờ chúng từng được nghe một chuyện như vậy, chúng dỏng cả tai lên, miệng nói:

- Bác biết đến là nhiều chuyện. Sao bác sướng thế?

- Ta mà sướng ư? Nói rồi thông ngẫm nghĩ về câu chuyện mình vừa kể. Phải, suy cho cùng, hồi ấy quả có sướng thật.

Rồi thông kể đến chuyện đêm Noel, thân nó đầy những bánh ngọt và nến.

Chuột nhắt trầm trồ:

- Trời, bác thông già, sao bác sướng thế?

Thông nói:

- Ta đã già đâu kia chứ! Người ta mới đem ta ở rừng về từ mùa đông thôi mà. Ta vừa mới lớn lên mà họ đã tống ta vào một cái thùng. Rõ thật là khó chịu.

Chuột nói:

- Bác kể chuyện hay quá đi mất!

Đêm sau, hai con chuột nhắt rủ thêm bốn con nữa đến để nghe thông kể chuyện. Thông nói:

- Phải, hồi ấy quả có sướng thật, nhưng rồi lại cũng sẽ có những ngày như vậy. Klumpê Đumpê ngã thang gác mà còn lấy được một nàng công chúa. Rất có thể ta cũng sẽ vớ được một nàng công chúa.

Nói rồi thông tưởng nhớ đến một cây phong xinh xắn trong rừng mà nó tưởng tượng là một nàng công chúa thật.

Lũ chuột nhắt hỏi:

- Klumpê Đumpê là gì thế?

Thông ta kể lại câu chuyện không sót một chữ. Lũ chuột nhắt thích quá, tưởng như muốn nhảy lên đến ngọn thông.

Đêm sau, chuột nhắt kéo đến đông hơn và đến chủ nhật lại có thêm cả hai gã chuột chù, nhưng hai gã tuyên bố rằng câu chuyện chả có gì lý thú, làm cho lũ chuột nhắt buồn xỉu. Vì thế câu chuyện đối với chúng, từ đó trở đi, cũng kém phần lý thú.

Chuột chù hỏi:

- Bác chỉ biết có mỗi chuyện ấy thôi à?

- Ừ, chỉ có thế thôi – thông trả lời – đó là chính câu chuyện ta được nghe kể trong buổi tối sung sướng nhất của đời ta, nhưng lúc đó, ta không biết là sung sướng đến mức nào.

- Chuyện của bác thật chán ngấy! Thế bác không biết ở đâu có mỡ miếng và nến làm bằng mỡ à? Bác không biết chuyện nào nói về cái chạn đựng thức ăn à?

- Không ! Thông nói.

- Thế thì xin chào bác ! Nói rồi chuột chù kéo nhau về.

Lũ chuột nhắt cũng rút lui nốt.

Thông ta lẩm bẩm:

- Dẫu sao nhìn lũ chuột nhắt ngồi quây tròn quanh mình nghe kể chuyện cũng thấy thú vị. Nhưng cảnh đó cũng chẳng còn. Chỉ khi nào người ta lôi mình ra khỏi nơi này thì hạnh phúc mới trở lại.

Bao giờ đến lúc ấy nhỉ?

Một buổi sáng đẹp trời, người ta đến dọn dẹp kho thóc, khuân hòm đi và kéo cây thông ra khỏi xó nhà. Nó bị quăng xuống đất hơi mạnh, nhưng liền đó có một người vác nó đem qua một cầu thang sáng sủa.

- Đời lại vun vút lên rồi ! Thông nghĩ thầm khi được mang ra sân và cảm thấy có gió mát và ánh nắng đầu xuân.

Thông mải nhìn các vật quanh mình đến nỗi quên cả bản thân mình. Liền với cái sân có mảnh vườn đầy hoa nở. Hoa hồng tươi thơm ngát rủ trên bờ rào, bồ đề đang ra hoa và chim nhạn vừa bay vừa hót : kia – rơ – vi – rơ – vít.

- Giờ đây ta lại sắp được sống! - Thông thì thầm và vươn cành ra. Than ôi ! Cành đã khô vàng. Người ta quẳng thông vào một xó giữa đám cây tầm ma và cây gai. Ngôi sao bằng giấy vẫn còn đính trên ngọn và lấp lánh ánh nắng.

Trong sân có vài đứa trẻ con hôm lễ Noel đã nhảy múa quanh cây thông và thấy thông hôm ấy rất đẹp. Đứa bé nhất chạy lại cầm lấy ngôi sao vàng óng, reo lên:

- Ồ, xem này ! Ngôi sao hãy còn đính trên cây thông Noel già xấu xí này!

Nói rồi, nó dận giày lên cành thông gãy răng rắc.

Thông ta nhìn những đóa hoa đẹp và khu vườn xanh tươi mát mẻ rồi lại nhìn cái thân mình. Nó muốn quay trở lại xó tối trong kho thóc. Nó nghĩ đến thời thanh xuân của nó trong rừng, nghĩ đến cái đêm Noel vui sướng và nghĩ đến những con chuột nhắt thích nghe kể chuyện Klumpê Đumpê.

- Thế là hết ! Ai bảo lúc sướng lại chả biết đường mà sướng?

Một anh đầy tớ đến chặt cây ra từng mảnh, được một bó củi to đem đun bếp. Người ta nghe thấy những tiếng thở dài và những tiếng kêu thất thanh. Bọn trẻ con chạy lại đứng trước ngọn lửa mà reo: “Phì ! phì !” nhưng những tiếng phì phì của cây thông là những tiếng thở dài thực sự. Nó nghĩ đến những ngày hè trong rừng, những đêm đông ngoài bầu trời khoáng đãng, những sao lấp lánh trên trời. Nó nghĩ đến đêm Noel và đến Klumpê Đumpê, câu chuyện độc nhất đã học được và kể lại được.

Thế rồi, chẳng còn sót lại một tí gì của cây thông non nữa.

Lũ trẻ con lại chạy ra sân, đứa bé nhất còn đeo trên ngực ngôi sao vàng mà thông đã được đeo trong cái tối sung sướng nhất của đời nó.

Cái tối hôm ấy không còn nữa và câu chuyện của chúng ta cũng hết như tất cả các câu chuyện trên đời này.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:17  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Con lợn ống tiền



Hans Christian Andersen





Căn phòng của trẻ con đầy những đồ chơi là đồ chơi.

Trên mặt cái tủ nhiều ngăn kéo có một cái ống tiền bằng sành, hình con lợn. Dĩ nhiên là lợn ta có một cái khe sau lưng, và người ta đã lấy dao rạch rộng ra để có thể bỏ lọt cả đồng bạc vào được. Trong ống có hai đồng bạc, chưa kể đến vô khối tiền siling. Lợn ta chật ních những tiền đến nỗi lắc không kêu. Không thể nào bắt nó chứa thêm được nữa.

Bây giờ lợn ta được đặt trên nóc tủ. Nó đưa mắt nhìn khắp phòng để tỏ ra rằng với số tiền chứa trong bụng mình, nó có thể mua được tất cả các thứ đồ chơi trong buồng. Giàu đến như thế, làm gì chẳng kiêu ? Đây cũng đúng là dư luận của cả buồng, tuy rằng chẳng có ai nói ra, vì còn đang mải nói nhiều chuyện khác. Các ngăn kéo tủ để ngỏ. Trong đó có một con búp bê lớn hơi cũ, có một cái móc sắt sau gáy. Cô nàng nhìn quanh rồi lên tiếng : “Chúng ta chơi trò chơi người lớn nào ! Vui đáo để !”

Thế là ầm ĩ cả lên. Ngay cả các bức chân dung cũng quay mặt vào tường để tỏ ra mình cũng có hai mặt, nhưng không có ý phản đối đề nghị của búp bê.

Nửa đêm. Chị Hằng lấp lánh qua cửa kính và chiếu sáng không lấy tiền. Đã đến giờ khai mạc, tất cả đều được mời đến, kể cả chiếc xe nôi, tuy rằng nó thuộc loại đồ chơi hơi thô.

Xe nôi trần tình : “Người nào có cái hay của người ấy chứ! Có phải tất cả thiên hạ đều là con nhà quý phái cả đâu. Người ta chả thường nói người nào phận nấy, là gì?”

Chỉ có mỗi lợn ta nhận được một thiệp mời, vì người ta cho rằng nó vắt vẻo trên cao thế thì dù có kêu to lên mà mời nó cũng chẳng nghe thấy nào. Mặc dù thế, lợn cũng không trả lời có đến hay không, và, quả nhiên nó không đến. Nếu nó muốn, nó sẽ dự cuộc vui tại chỗ; thu xếp thế nào thì thu xếp ! Và mọi người đành phải chiều nó !

Lập tức người ta sửa soạn một cái sân khấu múa rối nhỏ vừa tầm để lợn có thể xem được. Đầu tiên là diễn kịch, sau đó là tiệc trà, rồi đến mấy trò chơi trong nhà. Cuộc vui bắt đầu.

Ngựa gỗ đọc một bài diễn thuyết ngắn về những vật bằng gỗ và tính chất quý phái của con nhà dòng dõi. Xê nôi nói về đường sắt và sức mạnh của hơi nước. Đấy là những vấn đề “tủ” của chúng nên chúng nói rất thạo. Đồng hồ quả lắc thuyết trình một vấn đề chính trị và lớn tiếng kết luận :

- Tích tắc ! Thời cơ đã đến !

Công chúng xì xào :

- Có lẽ chị ta không được khỏe lắm thì phải !

Một chiếc gậy bằng song Tây Ban Nha khoe khoang một cách kiêu hãnh cái đầu bịt sắt và cái tay cầm bằng bạc của nó. Hai chiếc đệm thêu đặt trên ghế trường kỷ chẳng nói gì, chúng có vẻ dễ thương nhưng đần độn.

Đến mục hài kịch.

Mọi người ngồi xuống xem. Có ý kiến phát biểu là nên vỗ tay và dậm chân để tán thưởng.

Cái roi da lên tiếng :

- Tôi thì chẳng bao giờ vỗ tay hoan nghênh những người già mà chỉ hoan nghênh những người chưa “hứa hôn”.

Một tay hay đùa nói :

- Tôi thì cứ vỗ tay tuốt tuột.

Ống nhổ chen vào :

- Thôi, giờ nào việc nấy !

Mọi người đều tán thành; ai cũng muốn xem hài kịch. Kịch bản không hay lắm, nhưng diễn xuất khá. Diễn viên nào cũng cố ý phô phía nào có nước sơn đẹp nhất ra, ai cũng diễn tài cả. Những dây buộc quanh con rối hơi thô một tí, nhưng như thế người ta càng thấy rõ hơn. Con búp bê cảm động đến nỗi rơi béng cả cái móc sắt cắm sau đầu, còn lợn ta thì cũng hài lòng đến nỗi định tặng cho diễn viên một cái gì đấy. Theo thói quen của nó, “nó sẽ ghi tên diễn viên ấy trên tờ di chúc và người ấy sẽ nằm trong mồ với nó lúc nó chết”.

Thật gần như không thể nào hiểu nổi. Thoạt đầu chẳng ai suy nghĩ để hiểu thấu cả.

Tiệc trà xong, chuyển sang các trò chơi có vẻ trí thức, tức là chơi trò chơi giả làm người. Chỉ là trò chơi mà thôi, không có ác ý gì cả.

Sau đó, mỗi người lặng yên suy nghĩ một mình về những câu hỏi của lợn, suy nghĩ một cách nặng nhọc, vì có liên quan đến một tờ di chúc và một đám tang.

Bao giờ thì chuyện ấy sẽ xảy ra ?

Nó xảy ra sớm hơn chúng ta tưởng.

Cạnh ! Con lợn rơi từ trên mặt tủ xuống, vỡ tan từng mảnh trên sàn và các đồng siling nhảy múa vung lên: đồng bé quay, đồng lớn lăn, nhất là đồng bạc trước nay vẫn muốn thoát khỏi nơi giam hãm. Lợn chết, cả tiền lẫn bạc đều được giải phóng. Nhưng lại có một con lợn khác thay thế ngay trên mặt tủ, con này cũng bằng sành, lúc này đây chưa có một siling trong bụng và người ta không cần phải lắc nó làm gì.

Tất nhiên là ban đầu đối với lợn ống tiền bao giờ cũng thế. Với chúng ta, thế là hết chuyện.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:19  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Những bông hoa của cô bé Ida



Hans Christian Andersen




Cô bé Ida lẩm bẩm :

- Những bông hoa tội nghiệp của mình héo tiệt cả rồi. Mới tối qua còn đẹp là thế mà hôm nay đã tàn ! Tại sao thế, anh nhỉ ?

Em cất tiếng hỏi một anh sinh viên, một người bạn lớn tuổi của em, đang ngồi trên một chiếc trường kỷ nghe em nói. Anh sinh viên biết nhiều chuyện hay và đang cắt bìa cứng thành những hình ngộ nghĩnh : nào là quả tim, bên trên có các bà tí hon đang nhảy múa, nào là hoa, nào là lâu đài nguy nga có cửa sổ mở ra mở vào được.

- Tại sao hoa của em hôm nay có vẻ buồn rầu ủ rủ ư ? Là vì đêm qua chúng đi khiêu vũ chứ sao !

- Hoa thì nhảy làm sao được hở anh ?

- Có chứ ! Đến lúc tối mịt, khi chúng ta đi ngủ, chúng vui chơi, nối thành vòng tròn, nhảy múa với nhau. Hầu như đêm nào chúng cũng có dạ hội khiêu vũ, em ạ !

- Ở đấy họ có cho trẻ con vào không, anh ?

- Có. Cả hoa cúc và linh lan nữa

- Hoa nhảy ở chỗ nào cơ ?

- Em có đến trước của lâu đài nghỉ mát mùa hè của nhà vua, nơi có một khu vườn ta trồng vô vàn hoa, bao giờ chưa ? Chắc em đã trông thấy những con thiên nga bơi lại gần em khi em vứt bánh mì cho chúng đấy chứ ? Đấy, dạ hội khiêu vũ tổ chức ở chỗ ấy đấy !

- Hôm qua em có đi cùng với mẹ em vào khu vườn ấy, nhưng chả có cái cây nào còn lá, hoa cũng không. Chúng đi đâu hả anh ? Hồi hè, em thấy bao nhiêu là hoa cơ mà !

- Chúng ở trong lâu đài chứ ở đâu ! Em phải biết : hễ vua và triều đình trở về kinh đô thì các hoa liền vui vẻ chạy từ vườn vào lâu đài ngay. Chà ! Giá em được nhìn thấy chúng nhỉ ? Hai bông hồng đẹp nhất ngồi lên ngai và trở thành vua và hoàng hậu. Thược dược đứng sang một bên rồi vái lạy "chúng là thị thần". Rồi tất cả các hoa đẹp nhất cùng kéo nhau đến và cuộc dạ hội khiêu vũ bắt đầu. Những bông hoa violet tím xanh tượng trưng cho những lính thủy trẻ tuổi. Chúng nhảy với những bông dạ hương lan và kỵ phù lam mà chúng gọi là tiểu thư ! Các bông uất kim hương và bách hợp đỏ to tướng là những bà già đứng coi sóc cho mọi người nhảy đứng đắn và mọi việc đâu vào đấy.

Bé Ida hỏi :

- Nhưng các hoa đến nhảy trong lâu đài của vua mà không ai nói gì hả anh ?

- Chẳng ai hề biết gì. Trong những đêm hè, có người quản lý già vẫn đến lâu đài tuần tra đấy. Ông ta đeo một chùm chìa khoá lớn, nhưng các bông hoa vừa nghe thấy tiếng chìa khóa va nhau loẻng xoẻng, chúng liền im lặng trốn sau bức rèm và chỉ thò đầu ra thôi. "Hình như có mùi hoa thơm đâu đây thì phải ?", cụ quản lý già nói thế, nhưng không thể trông thấy hoa.

- Vui quá ! Ida vừa nói vừa vỗ tay. Nhưng còn em, em có nhìn thấy hoa được không ?

- Có chứ. Chỉ cần nhìn qua cửa kính là sẽ thấy hoa. Hôm nay anh cũng đã làm như vậy. Anh đã trông thấy một bông hoa thủy tiên vàng đứng vươn vai trên một cái ghế bành. Đó là một cung nữ.

- Thế các hoa có ra ngoài vườn bách thảo được không ? Chúng có đi nổi quãng đường dài như vậy được không anh ?

- Nhất định là được chứ. Hoa muốn bay cũng được nữa là. Em không nhìn thấy các chim mùa hè, lông đỏ, lông vàng và lông trắng ư? Chúng giống như hoa, vì truớc kia chúng là hoa đấy. Chỉ khác ở chỗ chúng là những bông hoa đã bay rời khỏi cọng, cánh hoa vẫy vùng như thể cánh chim. Nếu chúng ngoan ngoãn, chúng sẽ được phép bay cả lúc ban ngày và không phải quay trở lại sống lặng lẽ trên các cọng nữa; cuối cùng, các cánh hoa cứ thế trở thành những cánh chim thật. Chắc em cũng đã nhìn thấy rồi chứ ? Vả lại, rất có thể là những bông hoa trong vườn bách thảo chưa bao giờ vào lâu đài của nhà vua và không biết trong ấy người ta chơi vui đến thế lúc đêm khuya.

Bây giờ anh bảo em cái này: có cách trêu một vố cho ông giáo sư thực vật học, nhà ở gần đấy (em biết ông ấy chứ ?) Khi vào đến vườn, em sẽ mách cho một bông hoa biết là có đại hội khiêu vũ trong lâu đài. Nó sẽ kể lại với các hoa khác và tất cả sẽ đi dự. Lúc ấy, nếu giáo sư vào vườn bách thảo thì sẽ không thấy một bông hoa nào nữa và cũng không thể biết chúng đã đi đâu.

- Nhưng hoa chuyện trò với nhau làm sao được ? Chúng biết nói hả anh ?

Anh sinh viên nói :

- Không, chúng không biết nói hẳn hoi đâu, nhưng chúng ra hiệu cho nhau. Em không bao giờ thấy khi có gió, các hoa vẫn cúi chào và nghiêng nghiêng những đài hoa màu xanh của chúng hay sao ? Đối với chúng, đó là một thứ ngôn ngữ dễ hiểu chẳng kém gì ta nói với nhau.

Bé Ida hỏi :

- Thế chúng ra hiệu cho nhau như thế, ông giáo sư có hiểu được không ?

- Hiểu quá đi chứ. Có một buổi sáng ông ta xuống vườn và thấy một cây tầm ma lớn đang lấy lá ra hiệu bảo một bông hoa cẩm chướng bé, màu đỏ như thế này : "Cô xinh lắm, tôi yêu cô tha thiết". Giáo sư tức giận bèn đánh vào cây tầm ma, tức là đánh vào ngón tay tầm ma, nhưng đâm ngay phải gai, phồng cả tay và từ dạo ấy trở đi ông ta không bao giờ dám đụng đến một cây tầm ma nào nữa.

- Buồn cười quá nhỉ ! - Cô bé Ida vừa nói vừa cười

- Ai lại đem những chuyện như thế nhồi vào óc trẻ con bao giờ !

Ông hội thẩm, tính hay gắt gỏng, vừa đến chơi, ngồi vào ghế trường kỷ mà nói vậy.

Ông ta không ưa anh sinh viên và mắng anh ta luôn về cái tội cắt những hình thù ngộ nghĩnh: khi thì cắt một người lủng lẳng trên giá treo cổ, tay cầm một quả tim, ý giả là một tên ăn trộm tim; khi thì cắt một mụ phù thủy già đang cưỡi một con ngựa bằng cán chổi và công kênh anh chồng trên mũi.

Ông hội thẩm không chịu được cái trò trẻ con ấy và đã thêm một lần nữa:

- Ai lại đem những câu chuyện như thế nhồi vào óc trẻ con bao giờ !

Nhưng cô bé Ida thấy chuyện anh sinh viên kể về hoa ấy rất thú vị. Lúc nào em cũng nghĩ đến chuyện ấy và tin là các bông hoa của em rũ đầu xuống như thế là dĩ nhiên, vì đã nhảy suốt đêm, do đó đâm ra ốm.

Em cầm hoa lên và đến thăm các đồ chơi khác đặt trên cái bàn xinh xắn. Ngăn kéo đầy những đồ chơi. Trong cái giường búp bê, con Xôphi của em đang ngủ.

Ida bảo:

- Xôphi dậy đi ! Đêm nay chịu khó ngủ trong ngăn kéo nhé ! Những bông hoa tội nghiệp này đang ốm. Có lẽ được nằm giường mày chúng sẽ đỡ chăng ?

Ida nhấc búp bê lên. Nó bĩu môi giận dỗi, chẳng nói, chẳng rằng. Nó cáu vì không được nằm giường, đắp chăn cho chúng rồi dỗ cho chúng nằm im để em còn đi pha nước chè cho chúng. Đến mai chúng sẽ khỏi và có thể dậy được. Rồi em kéo màn che chiếc giường nhỏ để nắng khỏi làm chói mắt chúng. Suốt cả buổi tối, Ida không thể không suy nghĩ đến câu chuyện anh sinh viên đã kể cho em nghe. Em phải ghé mắt qua rèm cửa sổ nhìn những bông hoa xinh đẹp của mẹ em để đấy rồi mới đi ngủ được.

Em bảo chúng :

- Mình biết lắm đêm nay các cậu sẽ đi dự hội khiêu vũ !

Các hoa làm như không hiểu gì và không động đậy một chiếc lá nào cả: nhưng Ida không lạ gì, vì em biết tỏng ra rồi. Lên giường nằm mà em vẫn mơ ước hồi lâu: giá được xem các bông hoa kiều diễm khiêu vũ trong lâu đài của nhà vua thì thích phải biết ! Em tự hỏi. "Các bông hoa của ta đã có đi dự hội thật không nhỉ ? "

Nhưng rồi em cũng ngủ thiếp đi.

Nửa đêm em bỗng bừng tỉnh giấc. Em vừa mơ thấy anh sinh viên và các bông hoa. Ông hội thẩm đang quở trách anh sinh viên là đã nhồi cho cô bé những ý nghĩ dở hơi. Căn phòng của Ida im lặng như tờ. Ngọn đèn đêm leo lét trên bàn, bố và mẹ đang ngủ.

Em tự hỏi :

- Các bông hoa của ta có còn nằm trên giường của Xophi không nhỉ ? Phải xem xem mới được.

Em nhổm dậy và nhìn qua cửa buồng vẫn đang hé mở. Em lắng tai và hình như nghe tiếng đàn dương cầm vẳng ra từ phòng bên, tiếng đàn rất hay, em chưa thừng nghe thấy tiếng đàn nào hay bằng.

- Chắc hẳn các hoa đang khiêu vũ ! Trời ! Phải đi xem mới được !

Em không dám động đậy, sợ làm mất giấc ngủ của bố mẹ.

- Chỉ ước gì các hoa đến đây !

Nhưng các hoa không muốn đến. Âm nhạc vẫn tiếp tục. Ida không cầm lòng nổi nữa. Em tuồn ra khỏi giường, nhẹ nhàng bước ra đến tận cửa và nhìn vào phòng bên cạnh. Ôi chao ! Em được xem thích quá !

Trong ấy không có đèn ngủ, nhưng ánh trăng chiếu qua cửa sổ sáng vằng vặc như ban ngày.

Dạ hương lan và uất kim hương xếp thành hai hàng trên sàn nhà; trên cửa sổ chỉ còn chậu hoa trống không. Các hoa đang nhảy vòng tròn giữa phòng, bông nọ nắm lắy những lá xanh dài của bông kia. Một bông bách hợp vàng đang chơi dương cầm. Chắc bé Ida đã trông thấy nó trong vụ hè vừa rồi, em còn nhớ rõ ràng câu anh sinh viên nói về nó :

- Kìa, nom cứ như cô Lin ấy !

Lúc ấy mọi người đều cười, nhưng giờ đây Ida cũng cảm thấy bông hoa to màu vàng ấy trông giống cô Lin thật.

Tư thế chơi đàn của hoa chẳng khác gì cô thiếu nữ ấy. Khuôn mặt trái xoan cũng nghiêng bên này nghiêng bên nọ và cái đầu cũng gật gật đánh nhịp.

Không ai trông thấy Ida. Một bông hoa kỵ phù lam dài từ mặt bàn để đồ chơi đi đến chỗ giường búp bê, vén tấm rèm che các bông hoa ốm lên.

Chúng liền đứng dậy ngay lập tức và ra hiệu muốn nhảy với các hoa khác. Chúng thích nhảy quá trông không còn vẻ gì là ốm yếu nữa.

Bỗng nhiên hình như có cái gì rơi từ trên bàn xuống. Đó là những "que lễ Mùa chay" vừa mới nhảy xuống đất. Chúng cũng tự coi là hoa như ai.

Trên mỗi đầu que có buộc một con búp bê nhỏ bằng sáp, đầu đội một chiếc mũ rộng bè ra, giống hệt như mũ ông hội thẩm. Các que nhảy giữa đám hoa bằng ba cái cẳng đỏ của chúng.

Chúng làm ồn cả lên, vì chúng nhảy điệu Maduyêcka. Các hoa khác không biết nhảy điệu ấy vì hoa nhẹ quá, không dậm nhịp chân được.

Con búp bê bằng sáp vươn mình lên, quay trên các bông hoa giấy cài ở thắt lưng. Nó kêu :

- Ai lại đem những cái dại dột như thế dạy trẻ con bao giờ ?

Lúc ấy nom nó giống hệt ông hội thẩm với chiếc mũ bè của ông, cũng đỏ mặt và tức giận như ông ta. Các bông hoa giấy đập vào chân nó. Nó bèn thôi nhảy và lại trở thành con búp bê như cũ.

Dáng điệu con búp bê lúc ấy ngộ nghĩnh đến nỗi bé Ida cứ cười rũ ra. Mỗi khi con búp bê nhảy ông hội thẩm cứ phải nhảy theo, muốn làm ra vẻ người lớn hay trẻ con cũng cứ phải nhảy.

Các hoa phải xin dùm cho ông, nhất là những bông hoa đã nằm trong giường búp bê. Các que cắm búp bê cũng ngả lòng.

Vừa lúc đó từ ngăn kéo đựng con búp bê Xôphi của Ida và các đồ chơi khác phát ra một tiếng động to. Con rối máy lưng gù bụng phệ cúi xuống cạnh bàn, bò sát đất đến mở ngăn kéo.

Xôphi chui đầu ra ngoài, nhìn quanh và nói :

- Ơ kìa ! Có khiêu vũ làm sao lại không ai bảo cho tôi biết trước thế ?

Chú rối máy lưng gù bụng phệ hỏi luôn :

- Cô có muốn nhảy với tôi không ?

- Thế à ! Nom bộ dạng anh thật đúng là vũ nữ đấy - Xôphi vừa trả lời vừa quay ngoắt đi.

Nó ngồi xuống, nghĩ bụng thế nào chả có một đóa hoa đến mời nhảy.

Chẳng hoa nào đến. Nó bèn đằng hắng : "Hừm ! Hừm ! Hừm !" . Công toi !

Chú rối máy lưng gù bụng phệ đã bắt đầu nhảy một mình, cũng không đến nỗi vụng lắm, thật đấy !

Vì thấy hình như chẳng ai để ý đến nó, Xôphi bèn gieo mình từ trên ngăn kéo xuống.

Thế là náo động cả lên !

Tất cả các hoa đều chạy đến hỏi Xôphi có đau không. Hoa nào cũng ân cần. Nhất là những hoa đã nằm nhờ giường nó.

Xôphi không việc gì. Những bông hoa của Ida cám ơn Xôphi, nâng nó dậy và khiêu vũ với nó. Những bông hoa khác nhảy thành một vòng chung quanh những hoa của Ida. Xôphi mê tít; nó bảo với các bạn mới của nó cứ giữ lấy giường nó mà nằm. Nó nằm trên ghế trường kỷ là dễ chịu lắm rồi.

Các hoa đáp :

- Cám ơn bạn lắm ! Nhưng chúng tôi không sống lâu được đâu. Đến mai chúng tôi sẽ chết. Nhưng nhớ nói với bé Ida chôn chúng tôi cùng một chỗ ngoài vườn với con bạch yến của cô ấy nhé. Đến hè sang năm chúng tôi sẽ mọc lại và sẽ còn đẹp hơn bây giờ kia !

- Không, các bạn sẽ không chết đâu, Xôphi vừa nói vừa ôm hôn chúng.

Vừa lúc đó, cửa phòng mở ra và cả một lũ hoa vừa nhảy vừa đi vào.

Ida không hiểu chúng nó từ đâu đến. Chắc hẳn là những bông hoa trong lâu đài của nhà vua. Hai bông hồng lộng lẫy đội mũ miện dẫn đầu. Đó là vua và hoàng hậu,.

Rồi đến những bông cẩm chướng xinh đẹp cúi chào bốn phía.

Nhưng bông hoa thu mẫu đơn to tướng thổi kèn bằng vỏ đậu Hòa Lan đến nỗi đỏ mặt tía tai. Hoa muống và hoa bìm bìm xanh biếc rung lên, kêu như chuông. Thật là một dàn nhạc kỳ diệu.

Sau đó rất nhiều hoa khác vừa nhảy với nhau vừa tiến vào, nào violet tím xanh, nào cúc trắng, nào linh lan màu mỡ gà.

Rồi tất cả các hoa thân ái ôm hôn nhau.

Cuối cùng, chúng chúc nhau ngủ ngon.

Cô bé Ida trở về đi ngủ và mơ thấy tất cả những hình ảnh vừa qua.

Sáng hôm sau, vừa mở mắt, em đã chạy ngay ra bàn xem các hoa có còn đấy hay không. Em vén rèm che chiếc giường nhỏ lên. Các hoa vẫn còn đấy, nhưng héo hơn tối hôm qua nhiều. Xôphi nằm trong ngăn kéo, hôm qua đặt đâu, hôm nay vẫn nằm đấy, nhưng mặt trĩu xuống vì buồn ngủ. Bé Ida hỏi nhỏ :

- Mày có nhớ mày phải nói với tao điều gì không ?

Nhưng Xôphi vẫn giữ vẻ mặt ngây dại và không đáp lại lời nào.

- Như thế là không ngoan rồi. Mày đã chả được nhảy với tất cả các hoa là gì ?

Ida lấy một cái hộp bên ngoài có vẽ nhiều chim đẹp. Em mở hộp, đặt các hoa vào và bảo :

- Mộ của các bạn sẽ đẹp lắm. Khi nào các anh họ của tôi ở Nauy về đến đây, chúng tôi sẽ đem chôn các bạn ngoài vườn để đến mùa hè các bạn lại mọc lên, đẹp hơn cả bây giờ.

Những anh họ ở Nauy về là hai cậu bé khỏe mạnh tên là Giônat và Ađônphơ. Cha các cậu mới cho các cậu hai khẩu súng bắn chim. Các cậu định đem khoe với Ida.

Cô bé kể chuyện những bông hoa bị chết cho các cậu nghe và các cậu nhận lời đi chôn chúng.

Hai cậu vác súng đi truớc. Sau đến cô bé Ida bưng chiếc hộp đựng hoa. Họ đào một cái huyệt trong vườn. Ida chôn các bông hoa, rồi đặt chúng cùng với cái hộp xuống mộ.

Súng hỏa mai và sung thần công chẳng có. Giônat và Ađônphơ bắn súng hơi tống táng.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:21  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Cô bé chăn ngỗng

-Hans Christian Andersen-





Ngày xưa, có một bà hoàng hậu tuổi đã cao. Đức vua chết đã lâu, bà có một cô con gái rất xinh đẹp. Khi lớn lên, nàng được hứa hôn với một chàng hoàng tử con vua một nước xa xôi. Đã đến lúc tổ chức lễ cưới, nàng công chúa chuẩn bị sẵn sàng đi nước xa lạ. Mẹ nàng chuẩn bị cho nàng những vật quý giá: đồ trang sức, vàng, bạc, cốc, châu ngọc, tóm lại là tất cả những gì xứng đáng làm của hồi môn cho một công chúa vì mẹ nàng rất mực yêu nàng. Mẹ nàng gửi gắm một thị nữ có nhiệm vụ dẫn nàng đi đến chỗ ở của người chồng chưa cưới. Mỗi người cưỡi một con ngựa. Ngựa công chúa cưỡi tên là Pha-la-da, biết nói. Đến lúc chia tay, bà hoàng vào trong phòng ngủ, lấy một con dao con chích ngón tay, để chảy ba giọt máu. Bà cho máu nhỏ xuống một cái khăn trắng nhỏ, đưa cho con gái và dặn :

“Con thân yêu, hãy giữ gìn cẩn thận cái khăn này, nó sẽ có ích cho con trên đường đi”.

Hai mẹ con buồn bã từ biệt nhau. Công chúa để cái khăn áp trước ngực, nhảy lên yên ngựa để đi đến nơi ở của người yêu. Sau khi đã đi được một tiếng, cô cảm thấy khát khô họng, cô bảo thị nữ :

- Em hãy xuống ngựa, lấy cốc của ta múc nước suối kia và mang lại đây cho ta, ta khát nước lắm.

- Nếu cô khát, thị nữ trả lời, thì hãy tự nhảy xuống, rồi vươn người ra trên mặt nước mà uống. Tôi không phải là đầy tớ của cô.

Công chúa khát lắm, bèn xuống ngựa, cúi xuống dòng nước suối để uống nước. Nàng không dám uống nước bằng cốc vàng.

- Trời ơi ! - nàng kêu to. Ba giọt máu trả lời cô :

- Nếu mẹ cô biết sự tình thế này, thì hẳn tim bà sẽ tan nát trong ngực.

Nhưng công chúa là người can đảm. Nàng không nói gì và lại nhảy lên ngựa. Ngựa phi nước đại được vài dặm. Trời thì nóng nực, chẳng mấy chốc nàng lại khát nước. Tới một con sông, nàng bảo thị nữ :

- Em hãy xuống ngựa và cho ta uống nước bằng cái cốc vàng.

Cô đã quên đứt những lời độc ác của thị nữ. Nhưng thị nữ lại trả lời ngạo mạn hơn :

- Nếu cô khát thì hãy đi mà uống nước một mình, tôi không phải là đầy tớ của cô.

Công chúa khát quá, nhảy xuống ngựa, cúi xuống dòng nước chảy xiết, khóc và kêu lên:

- Trời ơi !

Ba giọt máu liền đáp lại :

- Nếu mẹ cô biết sự tình thế này thì hẳn tim bà sẽ tan nát trong ngực.

Trong khi cô cúi xuống để uống thì cái khăn có ba giọt máu, tuột khỏi ngực cô và trôi theo dòng nước mà cô không hay biết gì, vì lúc đó cô rất sợ hãi. Thị nữ thì lại trông thấy hết và nó rất vui mừng là từ giờ trở đi công chúa sẽ bị nó trị. Từ lúc đánh mất ba giọt máu, công chúa trở nên yếu đuối, không đủ sức tự bảo vệ nữa. Khi nàng định trèo lên con ngựa Pha-la-da thì thị nữ bảo :

- Tôi sẽ cưỡi con Pha-la-da, còn cô, cô hãy cưỡi con ngựa tồi của tôi.

Công chúa đành làm vậy. Tiếp đó thị nữ ra lệnh, lời lẽ gay gắt, bắt nàng phải cởi quần áo hoàng cung ra và mặc quần áo của nó vào. Cô lại phải thề có trời là khi đến cung điện sẽ không nói lộ gì ra. Nếu cô không chịu thề thì nó sẽ giết chết cô tại chỗ. Nhưng con Pha-la-da đã quan sát tất cả và ghi nhớ tất cả.

Thị nữ thì cưỡi con Pha-la-da, còn công chúa thì cưỡi con ngựa tồi. Họ lại tiếp tục đi, cuối cùng đến lâu đài nhà vua. Ở đấy, mọi người rất vui mừng khi họ tới, và hoàng tử vội chạy đến tận nơi đón họ, đỡ thị nữ xuống ngựa, vì tưởng rằng đó là vợ chưa cưới của mình. Thị nữ đi lên bậc thang lâu đài, còn nàng công chúa thì phải đứng lại ngoài thềm lâu đài. Vua cha nhìn ra, qua cửa sổ thấy nàng duyên dáng và tuyệt đẹp. Người vào trong cung và hỏi cô gái được coi là vợ chưa cưới của hoàng tử xem cô gái đứng ngoài sân là ai.

- Tâu vua cha, con đã gặp cô gái đó trên đường đi và con đã đưa cô ta đi cùng để đỡ lẻ loi một mình. Xin vua cha cho cô ta làm việc gì đó để cô ta khỏi phải vô công rỗi nghề.

Nhưng vua cha không có việc gì giao cho cô làm cả. Người bảo:

- Ở ngoài kia, ta có một thanh niên chăn ngỗng, hãy để cô ấy giúp việc anh ta vậy.

Chàng thanh niên tên là Cuốc. Vợ chưa cưới của hoàng tử phải giúp anh chăn ngỗng.

Ít lâu sau, vợ chưa cưới giả tâu với hoàng tử:

- Chàng thân yêu ơi, em muốn một điều, chàng hãy làm vui lòng em nhé!

Hoàng tử nói:

- Được thôi!

- Chàng hãy cho gọi người thợ lột da đến đập chết con ngựa em cưỡi đến đây, vì trong khi đi đường nó đã làm em bực tức.

Thật ra thì nó sợ con ngựa kể lại cách nó đối xử với công chúa. Đến lúc con ngựa trung thành Pha-la-da phải chết thì công chúa được tin. Nàng hứa với người thợ lột da là sẽ bí mật biếu anh một đồng tiền bạc nếu anh giúp nàng một việc nhỏ. Trong đô thị có một cái cổng to rất tối, hàng ngày, sớm tối nàng phải dẫn đàn ngỗng đi qua. Nàng xin người thợ lột da hãy đóng đanh treo đầu con Pha-la-da vào cái cổng ấy để nàng có thể luôn luôn trông thấy nó. Người thợ lột da hứa sẽ làm, bác đóng đanh chặt cái đầu con ngựa vào dưới cái cổng tối om.

Sáng sớm, khi cùng Cuốc đi qua cổng, cô bảo cái đầu :

“Ôi, Pha-la-da, mày bị treo ở đây ư?”

Cái đầu trả lời:

“Ôi ! Nàng công chúa của tôi, nàng qua đây ư?
Nếu mẹ nàng biết nông nỗi này
Tim mẹ sẽ vỡ tan tành”.

Lặng lẽ, cô đi khỏi đô thị, dẫn đàn ngỗng ra cánh đồng. Đến đồng cỏ, cô ngồi xuống và rũ tóc ra. Tóc cô óng ánh như vàng nguyên chất và Cuốc rất thích nhìn mớ tóc ấy lóe sáng. Anh muốn nhổ vài cọng tóc. Công chúa bèn nói :

“Ta khóc đây, ta không đây! Hỡi làn gió nhẹ,
Hãy cuốn cái mũ của Cuốc đi!
Cho đến khi nào tóc ta chải và tết xong”.

Tức thì gió thổi mạnh cuốn đi cái mũ của Cuốc. Anh ta chạy theo ngay. Khi anh trở về thì công chúa đã chải đầu xong và anh không nhổ được sợi tóc nào. Anh rất bực và không nói năng gì với cô nữa. Họ lại tiếp tục chăn ngỗng đến chiều, rồi cùng về nhà.

Sáng sớm hôm sau, khi lùa đàn ngỗng qua cổng, cô gái nói :

“Ôi, Pha-la-da, mày bị treo ở đây ư?”

Đầu ngựa trả lời :

“Ôi ! Nàng công chúa của tôi, nàng qua đây ư?
Nếu mẹ nàng biết nông nỗi này
Tim mẹ sẽ vỡ tan tành”.

Đi ra khỏi đô thị, cô lại ngồi trên đồng cỏ và lại rũ tóc ra chải. Cuốc muốn nắm lấy mớ tóc. Cô vội vàng nói :

“Ta khóc đây, ta không đây! Hỡi làn gió nhẹ,
Hãy cuốn cái mũ của Cuốc đi!
Cho đến khi nào tóc ta đã chải và tết xong”.

Gió nổi lên, cuốn cái mũ đi. Cuốc phải chạy theo. Khi anh ta về thì cô đã chải đầu xong từ lâu, và anh không nắm được mớ tóc ấy. Và rồi hai người lại cùng chăn ngỗng đến chiều.

Nhưng chiều hôm ấy, về tới nhà, Cuốc đến gặp vua cha, và tâu :

- Kính thưa hoàng thượng, con không thể chăn ngỗng với cô gái này nữa.

- Tại sao vậy?, vua hỏi.

- Suốt ngày cô ta làm con bực mình!

Vua cha bảo anh kể lại sự việc đã xảy ra. Cuốc nói :

- Buổi sáng, chúng con dẫn đàn ngỗng qua cái cổng tối om, ở đấy, có một cái đầu ngựa treo trên tường, cô ta nói với nó:

“Ôi, Pha-la-da, mày bị treo ở đây ư?”

Cái đầu trả lời:

“Ôi ! Nàng công chúa của tôi, nàng qua đây ư?
Nếu mẹ nàng biết nông nỗi này
Tim mẹ sẽ vỡ tan tành”.

Và Cuốc kể các sự việc đã xảy ra ở cánh đồng chăn ngỗng và tại sao anh ta lại phải chạy theo cái mũ. Vua cha dặn anh ngày hôm sau cứ đi chăn ngỗng như thường lệ. Sáng sớm, ngài thân chinh đến dưới cái cổng tối om và nghe được những câu cô gái nói với cái đầu Pha-la-da. Ngài theo ra cánh đồng và nấp vào một bụi cây. Chính mắt ngài trông thấy anh thanh niên và cô gái kia lùa ngỗng thế nào và sau một lúc cô gái ngồi xuống gỡ mớ tóc vàng xõa xuống lóe sáng. Rồi cô lại nói:

“Ta khóc đây, ta không đây! Hỡi làn gió nhẹ,
Hãy cuốn cái mũ của Cuốc đi!
Cho đến khi nào tóc ta chải sóng mượt và tết xong”.

Một cơn gió thổi mạnh, cuốn cái mũ đội đầu của Cuốc đi. Anh phải chạy theo rất xa. Cô gái chăn ngỗng chải tóc và cuốn thành những búp. Vua cha nhìn thấy tất cả. Không ai nhận ra ngài vì ngài rời khỏi nơi đó.

Chiều đến, cô gái về nhà, ngài cho gọi cô đến và hỏi tại sao cô lại làm như thế.

- Tâu bệ hạ, con không thể nói được, cô trả lời. Con không thể kể nỗi khổ của con với bất cứ ai trên thế gian này, con đã thề như vậy để khỏi bị người ta giết.

Vua cha ép cô nói, nhưng ngài không biết được gì thêm. Ngài bèn nói :

- Nếu con không muốn nói với ta thì con hãy kể nỗi khổ của con với cái bếp lò này.

Rồi ông bỏ đi. Cô đến ngồi gần cái bếp lò, than khóc, thổ lộ tâm gan.

- Ta ngồi đây, bị cả thế gian ruồng bỏ, dù ta là con vua. Một con thị nữ ác độc đã áp bức ta, bắt ta đổi cho nó quần áo hoàng cung. Nó đã thay thế ta để làm vợ chưa cưới của người yêu ta, và ta bắt buộc phải làm công việc bình thường của người chăn ngỗng. Nếu mẹ ta biết nông nỗi này, tim bà sẽ tan nát.

Vua cha đứng ở phía tường bên kia gần ống thông hơi, ngài đã nghe thấy hết. Ngài trở về và gọi cô hãy rời cái lò và đến gặp ngài.

Người ta mang đến cho cô quần áo hoàng cung, cô mặc vào đẹp như có phép lạ. Vua cho gọi con trai đến và bảo cho con biết về cô vợ chưa cưới giả mạo. Cô người yêu thật đứng trước mặt chàng, đấy là cô gái chăn ngỗng.

Hoàng tử thấy cô rất đẹp và phúc hậu nên lòng tràn ngập niềm vui. Một bữa tiệc được sửa soạn để mời tất cả bạn bè thân thuộc. Hoàng tử và công chúa ngồi ở đầu bàn, trước mặt họ là con thị nữ. Nó bị choáng ngợp và không nhận ra cô chủ trang sức lộng lẫy. Khi họ đang ăn uống vui vẻ, vua cha ra một câu đố cho thị nữ. Nó phải trả lời là một người đàn bà lừa dối chủ sẽ bị xử tội thế nào. Ngài kể các sự kiện đã xảy ra và hỏi nó:

- Như thế sẽ xứng đáng với hình phạt gì?

- Nó xứng đáng phải đuổi đi khỏi đất nước.

- Kẻ ấy chính là mày, vua cha nói. Mày đã ra bản án xử tội mày, mày sẽ bị xử tội như mày nói.

Sau khi hình phạt được thi hành, hoàng tử cưới nàng công chúa làm vợ và họ trị vì đất nước trong hòa bình và hạnh phúc.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:25  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Một bà mẹ




Hans Christian Andersen



Một bà mẹ đang ngồi bên đứa con thơ. Bà rất buồn vì đang lo đứa con bà chết mất. Đứa bé xanh rớt đã nhắm nghiền đôi mắt và đang thoi thóp. Đôi lúc đứa bé rền rĩ rất thiễu não, thế là người mẹ lại cúi sát xuống gần con, lòng se lại.

Có tiếng gõ cửa, một ông già nghèo khổ trùm kím trong tấm chăn thường khoác cho ngựa bước vào. Trời rét như cắt, kể ra không có áo nào ấm bằng thứ chăn ấy. Bên ngoài toàn là một màu băng tuyết. Gió vun vút như quất vào mặt.

Ông già rét run lập cập. Nhân lúc đứa bé ngủ thiếp đi, bà mẹ nhóm lò hâm một cốc bia. Ông già ngồi xuống ru đứa bé. Bà mẹ ngồi vào chiếc ghế gần ông già, nhìn đứa bé ôm yếu vẫn đang thoi thóp thở, và giơ một bàn tay lên. Bà hỏi :

- Liệu có việc gì không ? Thượng đế hẳn không bắt nó đi chứ ?

Ông già, chẳng phải ai, chính là Thần Chết, lắc đầu một cách khó hiểu. Bà mẹ gục đầu xuống ngực, nước mắt ròng ròng trên gò má. Đã ba ngày ba đêm nay, không hề được chợp mắt, bà thấy đầu nặng trĩu.

Bà ngủ thiếp đi, chỉ loáng một lát thôi, rồi chợt rùng mình vì rét, bà lại choàng dậy.

- Gì thế này ? - Bà kêu lên, mắt nhìn tứ phía. Ông già và cả con bà nữa đã biến mất. Lão đã đem con bà đi rồi. Chiếc đồng hồ quả lắc vẫn cót két trong xó nhà.

Cộc ! Một quả lắc bằng chì rơi xuống đất. Thế là chiếc đồng hồ ngưng bặt.

Bà mẹ tội nghiệp vùng chạy ra ngoài, miệng gọi con.

Bên ngoài, có một bà cụ mặc áo dài đen, đang ngồi giữa đám tuyết, bảo bà mẹ :

- Tôi thấy Thần Chết đã vào nhà chị. Lão ta mang con chị chạy đi rồi. Lão ta chạy nhanh hơn gió và chẳng bao giờ mang trả lại những con người lão đã cướp đi.

Bà mẹ khẩn cầu:

- Xin cụ chỉ bảo cho tôi con đường lão đi. Cứ chỉ đường cho tôi, tôi sẽ đuổi kịp.

Bà cụ đáp:

- Biết rồi! Nhưng trước khi ta chỉ đường, chị phải hát cho ta nghe tất cả các bài mà chị đã hát ru con chị. Từ trước đến nay, ta đã được nghe nhiều và ta rất thích nghe chị hát. Ta là thần Đêm Tối; ra đã từng trông thấy nước mắt chị tràn ra khi chị hát.

Bà mẹ van vỉ:

- Tôi xin hát hết, hát tất cả, sau đó xin cho tôi đuổi kịp thần Chết, đòi lại đứa con tôi.

Nhưng thần Đêm Tối cứ nín bặt. Thế là bà mẹ đành phải vặn vẹo đôi tay, nước mắt đầm đìa, cất tiếng hát. Tiếng nức nở át cả lời trong các bài hát.

Nghe hát xong thần Đêm Tối bảo:

- Rẽ sang phải rồi đi vào rừng tùng tối om kia. Ta đã thấy thần Chết mang con chị biến vào đấy.

Tới giữa rừng, gặp chỗ ngã ba đường, bà mẹ phân vân không biết rẽ đường nào. Nơi đó có một bụi gai không hoa không lá; đang giữa mùa đông nên băng bám và rủ xuống khắp các cành.

- Có thấy thần Chết mang con tôi qua đây không?

Bụi gai trả lời:

- Có. Nhưng nếu muốn tôi chỉ đường thì bà phải ủ tôi vào lòng để sưởi ấm cho tôi. Tôi buốt cóng và sắp biến thành băng rồi đây.

Bà mẹ ôm ghì bụi gai vào ngực để sưởi ấm cho nó. Gai đâm vào da thịt bà, máu nhỏ từng giọt đậm, nhưng bụi gai thì đâm chồi nẩy lộc, xanh tươi và trổ hoa ngay giữa đêm đông giá rét vì được bà mẹ truyền cho sức nóng của bà. Sau đó, bụi gai chỉ đường cho bà mẹ.

Bà đến một cái hồ lớn, không có lấy một bóng thuyền bè. Mặt băng trên hồ quá mỏng, không thể giẫm lên được, mà nước hồ lại quá sâu không thể lội qua. Nhưng thế nào thì thế, bà cũng phải vượt qua hồ tìm con. Bà bèn sụp xuống để uống cạn nước hồ. Tuy biết rằng đó là một việc mà con người ta không thể làm được, nhưng bà mẹ đau khổ mong mỏi Thượng đế sẽ ban phép lạ.

Hồ bảo bà:

- Không, không làm thế được đâu ! Ta thương lượng với nhau thì hơn. Tôi rất thích ngọc trai, mà đôi mắt bà là những hạt ngọc trai trong suốt, tôi chưa từng thấy bao giờ. Hãy khóc cho đến khi đôi mắt của bà rơi xuống; lúc ấy tôi sẽ đưa bà tới tận cái nhà kính ươm cây, nơi thần Chết ở và vun trồng các cây hoa. Mỗi cây là một kiếp người.

Bà mẹ nức nở:

- Trời ! Tôi còn tiếc gì để tìm thấy con tôi !

Bà khóc, nước mắt tuôn tầm tã đến nỗi đôi mắt bà theo dòng lệ rơi xuống đáy hồ và hóa thành hai hòn ngọc. Thế là bà được hồ nâng bổng lên như ngồi trên đu, và thoắt một cái, bà đã sang đến một ngôi nhà kỳ diệu dài chừng một dặm.

Không hiểu đấy là một quả núi có rừng thẳm và hang sâu hay là một công trình thiết kế nào của con người. Mắt bà mẹ đã rơi theo dòng lệ nên bà chẳng nom thấy gì. Bà hỏi:

- Tìm đâu cho thấy thần Chết đã cướp con tôi đi?

Một bà già canh giữ vườn kính ươm cây của thần Chết bảo bà:

- Thần Chết chưa về. Bà làm thế nào mà đến được tận chốn này? Ai đã giúp bà?

- Thượng đế chứ ai! - Bà mẹ đáp - Người đã thương xót tôi, vậy bà cũng rủ lòng thương bảo cho tôi biết con tôi đi đâu.

Bà già nói:

- Tôi không biết mặt nó, còn bà thì không trông thấy gì. Biết bao nhiêu cây, bao nhiêu hoa đã héo tàn trong đêm qua. Thần Chết lát nữa sẽ đến trồng lại. Chắc bà biết rằng mỗi người có một gốc cây hay một bông hoa tượng trưng cho sinh mệnh của mình. Ở đây, những cây hoa ấy chẳng có gì khác thường nhưng chúng có một trái tim và trái tim ấy đập hẳn hoi. Tim trẻ con cũng đập. Đấy, bà cứ tìm đi ! Có lẽ bà sẽ nhận ra nhịp tim của con bà đấy. Nhưng nếu bà muốn tôi hướng dẫn thêm cho bà thì bà tạ ơn tôi bằng cái gì nào?

Bà mẹ tội nghiệp than thở:

- Tôi chẳng còn cái gì để cho nữa, nhưng nếu cần, tôi có thể theo người đến tận cùng thế giới.

- Tôi đến đấy làm gì kia chứ? Bà còn có thể cho tôi mớ tóc dài đen nháy của bà. Bà thừa biết bộ tóc ấy đẹp lắm. Tôi rất thích bộ tóc ấy và sẽ cho bà bộ tóc bạc của tôi. Thế là đổi hòa đấy.

Bà mẹ nói:

- Nếu bà chỉ đòi hỏi có thế thôi thì tôi rất vui lòng.

Rồi bà trao mớ tóc đen cho bà cụ và nhận lấy mớ tóc bạc.

Hai người bước vào vườn kính rộng lớn của Thần Chết. Nơi đó có rất nhiều cây cỏ mọc lung tung. Có những cây dạ lan hương mảnh dẻ mọc trong lồng hình chuông bằng thủy tinh. Có những bông thược dược to và mập mạp. Có những cây mọc dưới nước, cây thì xanh tươi, cây thì khô cằn, hàng bầy rắn nước quấn mình quanh gốc. Đây là những cây cọ, cây tiêu huyền mộc; kia là đám mùi và xạ hương. Mỗi cây, mỗi hoa đều mang một tên người, mỗi cây, mỗi hoa tượng trưng cho một kiếp người hiện đang sống bên Trung Quốc, ở Gơrôenlăng hoặc khắp nơi trên Trái Đất.

Lại có những cây lớn trồng trong chậu nhỏ đang đe dọa phá vỡ chậu. Ngược lại, có những cây con cằn cỗi lại được trồng trong khoảng đấy xới xắn mịn màng, phủ rêư xanh mượt. Người mẹ đau khổ cúi rạp xuống từng gốc cây, tìm đến tận từng gốc nhỏ nhất, lắng nghe nhịp đập từng trái tim của chúng. Và giữa muôn ngàn trái tim ấy bà đã nhận ra tiếng đập của trái tim đứa con mình.

- Con tôi đây rồi ! Bà reo lên, tay chìa trên một gốc kỵ phù nhỏ bé màu lam, dáng ốm yếu, thân nghẹo sang một bên.

Bà già ngăn lại:

- Chớ đụng vào hoa. Cứ đứng ở đây. Chắc chắn lát nữa Thần Chết sẽ về. Đừng cho Thần nhổ cây hoa này. Cứ dọa là bà sẽ nhổ hết cây cỏ ở quanh đây, Thần Chết sẽ sợ, vì Thần chịu trách nhiệm trước Thượng Đế về các cây cỏ ở đây; không có lệnh của Người thì không ai được nhổ một cây nào cả.

Ngay lúc đó, nổi lên một cơn gió lạnh buốt. Bà mẹ cảm thấy rằng thần Chết đã đến.

Thần hỏi:

- Sao ngươi lại có thể tìm được đuờng đến tận đây, mà lại đến trước cả ta ?

- Ta là mẹ!

Thần Chết vươn bàn tay dài ngoằng về phía cây hoa mảnh dẻ, nhưng bà mẹ vòng đôi bàn tay giữ lấy cây, hết sức che chở cho cây không bị nhàu nát một lá nào. Thần Chết hà hơi vào tay bà mẹ; bà cảm thấy lạnh buốt hơn gió bấc làm rụng rời cả đôi tay.

- Ngươi không chống lại được ta đâu - Thần Chết dọâ.

Bà mẹ trả lời:

- Nhưng còn có Thượng Đế.

Thần Chết nói:

- Ta cũng chỉ tuân theo lệnh của Thượng Đế mà thôi. Ta trông nom khu vườn của Người. Ta mang cây cỏ hoa lá ở đây đi cũng chỉ để đem trồng lại vào khu vườn trên Thiên Đàng, còn mọi việc xảy ra trên ấy, hoa cỏ mọc thế nào, ta không được nói với ngươi.

Bà mẹ nức nở van xin:

- Giả con cho tôi.

Đồng thời mỗi tay bà túm lấy một bông hoa gần đấy rồi thét lên :

- Nếu tuyệt vọng tôi sẽ nhổ hết hoa ở đây.

Thần Chết bảo:

- Chớ có đụng vào. Ngươi nói rằng ngươi đau khổ mà ngươi lại muốn làm cho một người mẹ khác đau khổ hay sao?

Người mẹ khác? Bà mẹ đau thương buông hai bông hoa ra.

Thần Chết nói thêm:

- Đây là đôi mắt của ngươi. Thấy chúng lóng lánh sáng ngời dưới đáy hồ ta đã vớt lên. Ta biết đó là đôi mắt của ngươi. Hãy lấy lại đi. Đôi mắt ấy trong sáng hơn trước rất nhiều. Hãy nhìn vào lòng giếng gần đây, ta sẽ cho ngươi biết tên hai bông hoa ngươi vừa định ngắt. Ngươi sẽ thấy rõ cả cuộc đời quá khứ và tương lai của chúng, thấy rất rõ tất cả những gì mà ngươi sắp hủy hoại.

Bà mẹ nhìn xuống lòng giếng. Bà thấy từ một trong hai bông hoa ánh lên một niềm vui đầy hạnh phúc, còn cuộc đời của bông hoa kia chỉ toàn những cảnh trầm luân, khổ ải, nghèo khó, khốn cùng.

Thần Chết nói:

- Kiếp hoa này cũng như kiếp hoa kia, đều do ý của Thượng Đế cả.

Người mẹ nói:

- Thế hoa nào là hoa bất hạnh, hoa nào là hoa diễm phúc?

Thần Chết đáp:

- Ta không thể tiết lộ được thiên cơ. Nhưng ngươi cần biết rằng một trong hai bông hoa đó chính là bông hoa của con ngươi, là hình ảnh tương lai của nó.

Bà mẹ thét lên:

- Hoa nào trong hai bông là hoa của con tôi ? Hãy bảo cho tôi biết. Nếu đời nó sau này sẽ đau khổ thì xin hãy mang nó đi, mang ngay nó về chốn Thiên Đàng ! Xin hãy quên những dòng nước mắt của tôi, quên những lời tôi đã cầu nguyện, quên cả những lời tôi đã nói và những việc tôi đã làm!

Rồi bà vặn vẹo đôi bàn tay, quỳ xuống và cầu khẩn:

- Cúi xin Thượng Đế đừng nghe lời tôi nếu tôi có cầu khẩn những lời trái với ý Người. Xin người đừng nghe tôi.

Rồi bà gục đầu xuống ngực.

Thế là Thần Chết mang đứa bé tới cái xứ sở xa lạ mà bà mẹ đã nói đến ban nãy.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:26  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Đôi giày basket tự đi được





Hans Christian Andersen






Có một lần, đôi giày bát kết tự bước đi. Đã từ lâu đôi giày vốn của nhà vô địch chạy đua. Một hôm anh ta vứt vào sọt rác.

Thế là đôi giày quyết định đi lấy, và cả chạy nữa. Nhưng chiếc nọ lại chạy nhanh hơn chiếc kia. Chúng cãi cọ, đánh lộn và quật nhau bằng những chiết dây buộc.

Một con ếch la lên khi nhảy qua đấy:

- Dừng lại đi! Anh em sinh đôi mà lại đánh nhau, dại dột thế!

- Chị em sinh đôi chứ!* - Một chiếc giày cải chính.

Con ếch nói:

Ta đang có một chuyến đi xa, các bạn có thể giúp ta được không? Ta có cả hàng hoá mang theo nữa.

Những chiếc giầy bát kết nhận lời. Con ếch chất tất cả những chiếc va li nhỏ, xinh vào một chiếc giầy chạy chậm. Còn nó thì ngồi vào chiếc giầy kia, chiếc giầy chạy nhanh.

- Ta sẽ chỉ đường. Cứ đi đi!

Những chiếc giầy nẩy lên. Ban đầu chiếc giầy chạy nhanh còn chờ bạn đồng hành, nhưng rồi nó bực bội, nó bèn lấy hết hơi, hết sức vượt lên trước bỏ chiếc giầy đầy vali lại sau.

Ếch vội nói:

- Đừng chạy nhanh như vậy, nó không thuộc đường đâu!

Rồi chiếc giầy chở hàng bị lạc. Thế là con ếch bắt đầu khóc. Lại phải quay trở lại tìm chiếc giầy đáng thương kia. Mất bao nhiêu là thì giờ!

Đoạn, chúng theo đường cao tốc, vượt cả các xe du lịch và xe tải dưới con mắt ngơ ngác của những bác tài xế. Một toán cảnh sát tuần tra chặn lại giữa đường vì tốc độ quá lớn. Hơi đâu mất thì giờ! Những chiếc giầy vẫn cứ chạy nhanh.

Đã ba lần chúng nhầm đường; lại mất biết bao thời gian và để bù lại, chúng lại lao lên như sao băng.

- Dừng lại! "Các cô" đã chạy vào một sân vận động mất rồi! - Đột nhiên con ếch la lên.

Chúng nó không chịu nghe, vượt cả những vận động viên đang chạy. Quá chậm rồi. Chiếc giầy bát kết đã giành lấy vinh quang.

- Nó đã thắng 100 mét! Hoan hô! Một ủy viên giám khảo hô to. Nhưng còn một chiếc đâu? Đó, kia rồi! Ồ! Đây là những chiếc giầy của nhà vô địch thế giới chạy 100 mét! Tôi biết đôi giầy này mà. Nhưng dù sao cũng chưa đăng ký dự thi!

- Chắc ông ta đã ủy quyền cho những chiếc giầy của ông - một ủy viên khác nói - Với cả chú ếch và hàng hoá nữa.

Con ếch trả lời xuất sắc những câu phỏng vấn của các nhà báo. Nhưng trước đông đảo công chúng vây quanh ngưỡng mộ, nó chỉ hơi lúng túng, nói lắp bắp mà thôi. Những chiếc giầy bát kết lại cãi nhau, quật nhau bằng sợi dây buộc. Người ta nói đó là bức hoạ trực tiếp sinh động.

- Phải tiếp tục đi thôi! - Con ếch nói - Cuộc hành trình của tôi chưa kết thúc. Nhanh lên, ta phóng đi!

Đôi giầy bát kết thoát ra được và lại lên đường. Khi đến nơi con ếch rất buồn sẽ phải xa chúng. Nó nói:

- Ở lại đây với tôi. Các bạn làm tài xế cho tôi. Chúng ta sẽ cùng nhau đi thăm đất nước.

Những chiếc giầy bát kết thú vị nhận lời ngay.

Vậy thì, thưa các bạn thân mến, các bạn phải cẩn thận đấy. Nếu một ngày nào đó, các bạn thấy một đôi giầy bát kết bên lề đường thì cần phải xem xét kỹ nếu muốn ướm chân vào. Có thể có một chú ếch con đang ngồi trong đó.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:30  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Cô bé tí hon



Hans Christian Andersen





Ngày xưa có một bà hiếm hoi, mong có một đứa con mà mãi không được. Bà phải tìm đến một mụ phù thủy để nhờ giúp. Bà nói:

- Tôi muốn có một đứa con, bà bảo giùm tôi phải làm thế nào.

- Ta sẽ giúp - mụ phù thủy trả lời - Hãy cầm hạt lúa này. Nó không giống như lúa mì vẫn mọc ngoài đồng, cũng không giống lúa vẫn cho gà vịt ăn. Đem về gieo vào chậu hoa, một thời gian sau sẽ biết.

- Cảm ơn bà - bà hiếm con trả công và chào mụ phù thủy rồi đem hạt lúa về nhà gieo. Chẳng mấy chốc nó mọc thành một cây hoa tuyệt đẹp, giống như hoa uất kim cương, nhưng cánh hoa cuộn lại như một cái nụ.

- Hoa đẹp quá!- Bà thốt lên và đặt môi lên hoa. Nhưng bà đang hôn bông hoa thì bỗng có tiếng động mạnh làm hoa bừng nở. Nhìn bông hoa, bà ngạc nhiên thấy ở giữa bông hoa có một cháu bé xinh đẹp ngồi trên nhụy hoa, như ngồi trên chiếc ghế tựa màu xanh. Bé chỉ lớn bằng ngón tay cái nên bà đặt tên cho bé là Bé tí hon.

Bà lấy vỏ hạt dẻ để làm cho bé một chiếc nôi rất đẹp, bên trong trải nệm bằng cánh hoa tím, chăn đắp cho bé là một cánh hoa hồng. Ban đêm bé ngủ ở đấy, còn ban ngày bé chơi trên bàn. Bà đặt trên bàn một cái đĩa đựng đầy nước, vành đĩa khoanh một vòng hoa. Cánh hoa nổi trên mặt nước. Có một cánh hoa cánh hoa uất kim cương to dùng làm thuyền. Bé ngồi vào đấy dạo chơi như dạo thuyền, một chiếc lông ngựa dùng làm mái chèo. Bé vừa chèo vừa hát, giọng thật êm ái, dịu dàng.
Một đêm, bé tí hon đang ngủ, bỗng một con cóc to tướng vừa béo vừa nhớt trông phát khiếp chui qua ô kính vỡ trên cửa sổ vào phòng và nhảy lên bàn, nơi cô bé tí hon đang ngủ dưới cánh hoa hồng.

Nó nghĩ thầm:

- Con trai mình được con bé này làm vợ, hẳn là cu cậu sướng mê.

Thế là nó chộp lấy cái vỏ hạt dẻ, trong có Bé tí hon đang ngủ, chui qua ô kính vỡ nhảy ra vườn. Trong vườn có một dòng suối nhỏ, hai bờ lầy lội. Đấy là chỗ ở của hai bố con nhà cóc. Khiếp! Cóc con cũng béo phị như bố, trông rất sợ. Hai bố con sao giống nhau đến thế!

Trông thấy cô bé xinh đẹp trong vỏ hạt dẻ, cóc con reo lên: cọc, cọc, cọc, kẹc, kẹc, kẹc!

Cóc bố bảo:

- Khẽ chứ! Không nó thức dậy, nó trốn mất. Chúng ta sẽ đặt nó lên một lá sen to. Nó bé, ở đấy như ở một hòn đảo, không chạy trốn đi đâu được. Chúng ta sẽ làm cho nó một căn nhà ở ngay chỗ bùn lầy này.

Giữa dòng suối có nhiều gốc sen, lá xòe to bập bềnh trên mặt nước. Cóc bố bơi ra giữa dòng suối, nơi có tàu lá to nhất, đặt chiếc vỏ hạt dẻ đựng bé Tí hon vào đấy.
Sáng hôm sau, thức dậy Bé Tí hon thấy mình đang ở trên tàu lá, bốn chung quanh là nước. Nó sợ quá, òa lên khóc, không có cách vào bờ.

Lúc này, bố con nhà cóc đang trang hoàng phòng cưới, căng lên tường những chiếc lá sen xanh, đính lên những bông sen trắng với những nhị sen vàng. Xong rồi hai bố con bơi ra tận giữa suối đón dâu.

Cóc già cúi chào bé Tí hon và nói:

- Ta giới thiệu với con đây là thằng con trai ta. Chồng của con đấy. Hai con sống trong căn phòng đẹp đẽ giữa chốn bùn lầy này.

Cóc con lại: Cọc, cọc, cọc, kẹc, kẹc, kẹc!

Hai bố con ngậm tàu lá sen to lôi vào bờ. Bé Tí hon ngồi trên tàu lá khóc sướt mướt. Nó không muốn ở nhà của lão cóc già ghê tởm và không muốn lấy thằng con trai gớm ghiếc của lão.

May sao lúc ấy có đàn cá con đang bơi lội dưới suối trông thấy. Chúng nhô lên mặt nước để xem cô bé.
Chúng thấy bé xinh quá lại rất buồn vì phải sống với hai con cóc ghê tởm.

- Không! Không thể để thế được!

Đàn cá bảo nhau và bơi đến dưới tàu lá có Bé Tí hon đang ngồi trên và cắn đứt cuộng sen. Thế là dòng nước cuốn tàu lá đi, đưa cô bé ra xa, rõ xa, bố con nhà cóc không thể bơi tới đó được.

Bé Tí hon trôi qua nhiều thành phố. Chim chóc trong bờ bụi hót rằng:

- Cô bé xinh quá!

Tàu lá đưa cô bé qua nhiều xứ lạ. Một con bướm trắng bay lượn hồi lâu trên đầu cô bé đậu xuống tàu lá. Cô bé sung sướng vì thoát khỏi hai bố con nhà cóc lại được ngắm nhìn phong cảnh đẹp ở những miền đất xa lạ tàu lá trôi qua. Dưới ánh nắng, nước suối lóng lánh như vàng lỏng. Cô bé cởi dây lưng, buộc một đầu vào cánh bướm, một đầu vào tàu lá. Khi bướm bay nó kéo theo cả tàu lá. Bỗng một con bọ dừa xuất hiện, lấy chân quắp cô bé đem đến một cành cây, chiếc lá thì vẫn chao lượn cùng con bướm. Bướm cố gỡ ra khỏi dây buộc mà không sao gỡ được.

Khi bọ dừa đem Bé Tí hon lên cây. Bé sợ lắm. Bé sợ cả cho bướm tội nghiệp bị buộc chặt vào tàu lá, nếu không được ai gỡ ra cho thì bướm chết đói mất. Nhưng bọ dừa có nghĩ gì đến chuyện ấy! Nó đặt Bé Tí lên môt chiếc lá to, đem nhụy hoa đến cho Bé ăn và khen Bé đẹp.

Nhiều bọ dừa bạn bè nó đến chơi, nhìn chằm chằm Bé Tí hon và nói những câu láo xược. Một ả bọ dừa trẻ kêu lên

- Nó chỉ có hai chân thôi các bạn ạ!

Một con khác vội thêm:

- Nó không có râu chúng mày ạ!

Nhiều con khác chế nhạo:

- Trông nó xấu như giống người vậy!

Thật ra Bé Tí rất xinh. Lúc mới đem Bé Tí về, nó có nghĩ như các bạn nó đâu. Chỉ có các bạn nó dèm pha, nói ra nói vào mãi nên bọ dừa cũng tin là Bé Tí xấu và không thích Bé nữa và đem Bé đặt xuống một cây cúc trắng.
Tưởng rằng mình xấu đến mức bọ dừa cũng không ưa, Bé Tí khóc nức nở, buồn phiền. Nhưng thật ra thì Bé rất xinh, thanh tú, dịu dàng, chẳng khác gì một cánh hồng.
Bé Tí hon sống một mình suốt mùa hạ trong khu rừng lớn. Bé lấy cọng rơm làm cho mình một cái võng, treo dưới một lá thu mẫu đơn to để tránh mưa. Bé ăn nhuỵ hoa và uống những hạt sương rơi. Bé sống như vậy suốt cả mù hè và cả mùa thu. Nhưng rồi mùa đông đến, mùa đông dài dằng dặc và lạnh giá. Những con chim nhỏ thường hót cho Bé nghe giờ cũng bay đi tránh rét. Cây rụng hết lá, hoa đều tàn, chiếc lá thu mẫu đơn che chỗ nằm cũng héo quắt, chỉ còn lại chiếc cọng vàng khô. Quần áo rách bươm, Bé rét run.

Tuyết rơi, mỗi giọt tuyết rơi xuống Bé nặng như hòn đá không chịu nổi. Bé núp mình trong một chiếc lá khô, nhưng chẳng ấm thêm chút nào, vẫn rét run cầm cập.
Bé Tí hon bỏ khu rừng đến một ruộng lúa gần đấy. Ruộng lúa vừa mới gặt chỉ còn gốc rạ từ dưới đất giá lạnh tua tủa gai đâm lên. Đi qua đám ruộng, Bé Tí hon cũng thấy vất vả như người đi qua một cánh rừng, nó đi chệnh choạng ngã lên ngã xuống nhiều lần. Bé Tí hon lần được đến cổng nhà mụ chuột đồng - một cái hốc dưới gốc rạ. Chuột đồng sống ở đấy rất thoải mái, lại có đầy lúa và các thức ăn khác. Bé Tí hon vào nhà mụ chuột đồng xin một hạt lúa mạch ăn cho đỡ đói, đã hai hôm nay bé không được ăn gì vào bụng.

Chuột đồng bảo:

- Tội nghiệp con bé! Vào đây ăn với ta cháu ạ!

Thấy Bé Tí hon dễ thương, chuột bảo:

- Cháu có muốn ở đây với ta không? Chỉ cần giữ gìn nhà cửa cho sạch và kể chuyện cho ta nghe. Ta thích nhất là nghe kể chuyện.

Bé Tí hon làm theo lời chuột và được chuột đối đã tử tế.
Một hôm chuột nói:

- Sắp có khách sang chơi đấy. Ông bạn láng giềng ta là một người giàu có, nhà cao cửa rộng. Ông thường mặc chiếc áo lông đen nhánh như sa tanh. Cháu mà lấy được ông ta thì may lắm. Nhưng ông ta mù, cháu phải kể chuyện cho ông ta nghe.

Rồi ngay hôm ấy, Chuột chũi hàng xóm đến thăm Chuột đồng. Hắn mặc bộ áo lông đen nhánh như sa tanh.

Chuột đồng nói là hắn giàu và có học. Nhà hắn rộng gấp hai mươi lần nhà các con Chuột Chũi khác. Nhưng hắn không thích nắng và hoa. Hắn luôn nói xấu ánh nắng và hoa. Chúng bảo Bé Tí hon hát. Bé hát rằng: "Bay đi! Bọ dừa bay đi". Bé hát rất hay. Giọng bé dịu dàng, Chuột chũi nghe thích lắm, nhưng hắn không nói gì.

Chuột chũi đã đào một ngách từ nhà hắn ăn thông sang nhà Chuột đồng. Hắn mời Bé Tí hon và bạn bè hắn vào đấy chơi. Trong hang có xác một con chim chết rét. Chuột chũi ngậm một mẩu gỗ mục nát có phát ra ánh sáng đi trước soi đường. Đến gần chỗ xác con chim, chuột chũi lấy mõm húc lên trần cho thủng một lỗ, để cho ánh sáng lọt vào.

Nhờ có ánh sáng họ trông thấy con chim én nằm giữa hang, hai cánh gập lại, lông che kín đầu, chân co quắp. Rõ ràng là chim đã chết rét! Thật tôi nghiệp! Bé Tí hon thương chim lắm. Nó đã hót cho Bé nghe suốt cả mùa hè. Nhưng chuột chũi lại lấy chân đẩy chim én và nói:

- Nó không hót được nữa! Buồn thay cho số phận những con chim bé nhỏ! Ngoài tiêng kêu chiêm chiếp chim chẳng biết gì nữa, rồi cứ đến mùa đông lại chết rét. Lạy trời đừng bắt các con tôi sau này hoá thành chim.

Chuột đồng hưởng ứng:

- Bác nói rất đúng! Ngoài tiếng kêu chiêm chiếp chim có biết làm gì đâu! Mùa đông tới là chết đói và chết rét.

Bé Tí hon không nói gì; đợi lúc hai con chuột quay lưng đi, nó cúi xuống, vạch lông chim, hôn lên hai mắt nhắm nghiền của chim và nói:

- Đúng con chim này đã hót cho mình nghe suốt cả mùa hè vừa qua. Con chim xinh quá, hót thật là hay.

Ở nhà Chuột chũi ra về, suốt đêm Bé Tí hon không ngủ được. Bé vùng dậy lấy rơm tết thành một cái chăn đem đắp cho con chim chết rét. Bé còn lấy nhuỵ hoa đem phủ xung quanh thân chim. Bé nói:

- Vĩnh biệt chim thân yêu. Cảm ơn chim đã hót cho ta nghe suốt cả mùa hè, khi ánh nắng sưởi ấm chúng ta, cây cối xanh tươi và làm dịu mắt ta.

Bé Tí hon lấy tay ghì đầu chim vào ngực mình. Bỗng Bé thấy có vật gì động đậy dưới tay Bé. Đó là trái tim của chim. Con én chỉ mới bị cóng vì rét, giờ đây được sưởi ấm nó tỉnh lại.

Mùa thu én thường bay về phương nam tránh rét. Nếu có con nào lọt lại thì nó bị rét cóng, rơi xuống và bị tuyết vùi.

Nghĩ vậy, Bé Tí hon thương con chim, lấy thêm nhuỵ hoa rắc lên mình, lấy lá bạc hà Bé thường dùng làm chăn đắp phủ lên đầu chim.

Đêm hôm sau Bé Tí hon trở lại thăm chim, thấy chim vẫn sống, nhưng yếu lắm, chỉ mở mắt một tí nhìn Bé rồii lại nhắm nghiền. Bé đứng cạnh chim, cầm một mẩu gỗ mục thay đèn. Một lúc chim cất tiếng nói:

- Cảm ơn cô bé lắm! Cảm ơn cô bé thân yêu! Tôi thấy trong người đã nóng lên, đã lại sức. Tôi sẽ có thể bay về nơi ấm nắng cùng với bè bạn.

Bé Tí hon đáp:

- Chớ! Bên ngoài đầy băng tuyết còn lạnh lắm. Chim cứ ở lại đây, nằm cái giường bé nhỏ này. Tôi sẽ chăm sóc cho chim rất chu đáo.

Bé lấy một cánh hoa múc nước đem lại cho chim én. Uống nước xong, chim én kể hco Bé nghe chuyện chim bị thương ở cánh khi bay từ trong một bụi gai ra, vì vậy không kịp bay theo đàn và rơi xuống đất. Chim chỉ nhớ được có thế và không biết sau đấy thế nào, bây giờ đang ở đâu.

Chim én ở lại trong hang suốt mùa đông và được Bé Tí hon hết lòng chăm sóc. Nó rất yêu quý Bé. Chuột đồng và Chuôt chũi không biết tý gì. Nếu biết chúng đã đuổi chim đi.

Mùa xuân đã đến. Những tia nắng đầu tiên xuất hiện. Chim én hỏi Bé Tí hon có muốn đi theo không. Chim sẽ cõg Bé trên lưng đưa về rừng. Nhưng Bé Tí hon lắc đầu nói:

- Tôi không muốn làm như thế. Làm thế là phụ ơn chuột đồng.

- Thế thì từ biệt bạn thân yêu.

Chim én nói rồi bay vút lên không, giữa bầu trời chan hoà ánh nắng. Bé Tí hon buồn rầu nhìn theo, Bé cũng rất mến chim, chim đi rồi Bé buồn. Suốt ngày Bé phải ở trong nhà, không ra ngoài nắng được ấm được, vì lúa ngoài đồng mọc lên cao. Đối với Bé, thửa ruộng lúa ấy rậm rạp như một cánh rừng.

Một hôm Chuột đồng bảo bé:

- Mùa hạ chỉ còn thời gian nữa, lễ cưới sáp đến nơi rồi, ông bạn láng giếng đã đem lễ sang dạm hỏi. Cần phải sửa soạn quần áo mới cho cháu. Ta sẽ cho cháu nhiều của hồi môn để cháu đem về nhà chồng.

Rồi chuột đồng bảo Bé ngồi quay sợi. Cả bốn con nhện dệt đêm ngày. Chiều nào Chuột chũi cũng sang chơi và nói rằng hễ qua mùa hè, trời bớt nóng, là hắn cưới Bé Tí ngay.

Nhưng Bé Tí hon không ưa chuôt chũi. Nó không muốn lấy lão ta, muốn đi khỏi nơi đây. Sáng sáng, lúc bình minh, và chiều chiều lúc mặt trời sắp lặn. Khi gió thổi các bông lúa rạp xuống, hé cho Bé nhìn thấy bầu trời xanh biếc, bé lại mơ ước cuộc sống bên ngoài, mong Chim én bay trở lại.

Khi thu sang, quần áo cưới đã chuẩn bị xong, chuột đồng bảo Bé:

- Bốn tuần nữa thì làm lễ cưới.

Bé Tí hon oà lên khóc, nói rằng không thích chuột chũi.
Chuột đồng mắng:

- Đừng có õng ẹo! Tao gả mày vào nơi danh giá thế còn gì! Đến ngay Hoàng đế cũng chả cón bộ áo xa tanh đen bóng như nó. Mày phải cảm ơn Trời phật mới đúng chứ!
Đến ngày cưới, Chuột chũi tới để đem Bé Tí hon đi. Bé phải xuống dưới hang với chuột chũi, xa ánh nắng, vì chuột chũi ghét ánh sáng. ở nhà chuột đồng ít ra Bé cũng còn có thể đứng ở cửa hang ngắm mặt trời mọc.

- Mặt trời nóng ấm ơi! Vĩnh biệt! Bé vừa nói vừa giơ tay lên.

Rồi Bé tí hon rời nhà chuột đồng.

- Vĩnh biệt! Vĩnh biệt! - Bé vòng tay ôm một bông hoa nhỏ - Nếu hoa có thấy chim én cho ta gửi lời chào.

- Chiêm chiếp! Chiêm chiếp!

Vừa lúc ấy, Bé Tí hon nghe có tiếng chim hót trên đầu. Bé nhìn lên. Đúng là chim én!

Chim én nhìn thấy Bé mừng quá! Bé kể cho chim nghe nỗi buồn phải lấy chuột chũi, phải xuống ở hang sâu, phải xa mặt trời.

Chim én nói:

- Mùa đông sắp đến rồi, tôi sắp quay về xứ nóng. Bé có muốn cùng đi với tôi thì trèo lên lưng tôi, lấy dây lưng buộc người vào mình tôi. Chúng ta trốn xa chuột chũi và chỗ ở ghê tởm của nó. Chúng ta sẽ đi thật xa, qua núi non đến những xứ nóng, ở đấy có ánh nắng chan hoà, suốt năm lúc nào cũng như mùa hạ, hoa lá cỏ cây xanh tươi đẹp đẽ. Trốn đi với tôi, Bé Tí hon thân yêu, người đã cứu sống tôi lúc tôi đã nằm cứng đơ dưới hang sâu nhà chuột chũi.

- Vậy thì chúng ta đi thôi!

Bé Tí hon đáp và trèo lên lưng chim én, lấy thắt lưng buộc mình vào lông chim.

Chim én vút lên không trung, bay qua hết rừng này đến biển nọ, bay qua những ngọn núi tuyết phủ quanh năm. Bé Tí rét run chúi vào bộ lông dày của chim én, chỉ ló đầu ra nhìn tất cả những cảnh huy hoàng dọc đường.
Rồi đôi bạn tới vùng xứ nóng. ở đây nắng chói lọi, trời lồng lộng cao. Trên cành cây đung đưa những chùm nho mọng quả đen đẹp, những cam chanh chíu chít. Có những đứa trẻ xinh đẹp chơi đùa trên đường cái.

Chim én vẫn bay xa mãi, phong cảnh mỗi lúc một đẹp hơn.

Cuối cùng chim én đưa Bé Tí hon đến một nơi, dưới bóng cây xanh, gần một dải hồ nước xanh biếc, sừng sững mọt toà lâu đài cổ bằng cẩm thạch trắng. Nho và câyu trường xuân leo kín các cột. Chim én làm tổ trên một cái cột ấy. Chim nói với Bé Tí hon:

- Nhà tôi đấy! Bé có thấy cỏ mọc ở dưới không. Tôi sẽ đặt bé xuống giữa đám cỏ, sống ở đấy, Bé sẽ thấy sung sướng.

- Vâng! - Bé Tí hon vỗ tay trả lời.

Ở đấy có một cái cột bằng cẩm thạch trắng vỡ làm ba mảnh, chung quanh mọc đầy hoa trắng rất đẹp. Chim én đặt Bé Tí hon xuống đấy trên một chiếc lá to. Bé bỗng ngạc nhiên khi thấy ở đây có một chàng trai bé nhỏ trong như thuỷ tinh. Chàng không to lớn gì hơn Bé Tí hon. Trong mỗi bông hoa đều có một người bé nhỏ như thế.

Chàng trai trong bông hoa cúc trắng là vua của họ.

- Bé Tí hon thì thầm với chim én

- Trời! anh chàng đẹp trai quá!

Hoàng tử tí hon rất sợ chim én, vì đối với chàng bé nhỏ và mảnh khảnh thì chim én quả là một con chim khổng lồ.
Vừa nhìn thấy Bé Tí hon, Hoàng tử mê say ngay. Chưa bao giờ chàng trông thấy một người con gái xinh đẹp như thế! Chàng nhấc chiếc mũ miện đang đội đặt lên đầu cô bé Tí hon ngỏ ý muốn lấy bé. Lấy chàng, Bé sẽ trở thành nữ chúa của các loài hoa.

Thật là đẹp đôi, chẳng như thằng Cóc con và lão chuột chũi!

Bé Tí hon bằng lòng. Từ mỗi bông hoa bước ra một nam, một nữ, quần áo sang trọng. Đôi nào cũng xinh đẹp, nhưg xinh đẹp nhất vẫn là đôi vợ chồng mới cưới. Người ta lắp cánh vào cho Bé Tí hon; Bé có thể bay từ bông hoa này sang bông hoa khác. Khắp nơi đều vui mừng. Trên ngọn cột đá cẩm thạch, chim én ráng sức hót mừng đôi tân hôn, tuy rằng chim rất buồn và nhớ cô bé.
Hoàng tử bảo Bé:

- Cái tên Bé Tí hon xấu lắm mà em thì lại rất đẹp. Từ nay tên em sẽ là là Tiểu Ngọc.

Tạm biệt! Tạm biệt! Chim én hót chào để rời xứ nóng, trở về phương Bắc.

Con chim én ấy làm tổ ở cạnh cửa sổ nhà người kể chuyện này. Nó dùng tiếng nói "chiêm chiếp!" mà kể chuyện trên đây cho ông ta nghe và nhờ đó chúng ta biết thêm được một chuyện.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:32  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Giăng bị thịt



Hans Christian Andersen





Ở giữa vùng thôn quê, có một cái lâu đài cổ, trong lâu đài có một ông hoàng già và hai cậu con trai.

Các cậu này thông thái đến nỗi người khác chỉ cần hiểu biết bằng một nửa các cậu cũng đã khá uyên bác rồi. Họ đều muốn hỏi con gái nhà vua và họ có thể làm việc ấy vì công chúa đã tuyên bố sẽ lấy người nào có tài ứng phó trước mặt nàng.

Cả hai cậu dành ra tám ngày để chuẩn bị. Công chúa chỉ ra hạn có từng ấy ngày, nhưng như thế cũng thừa đủ đối với các cậu: các cậu tài cao học rộng nên sau tám ngày đã chuẩn bị xong xuôi. Một cậu học thuộc lòng cả quyển tự vị la tinh và tất cả các số báo hằng ngày ra trong thành phố ba năm gần đây, đọc xuôi hay đọc ngược cũng được. Cậu kia học thuộc làu bộ luật và tất cả sự hiểu biết của một vị quan tòa; cậu cho rằng mình có đủ tài để ngồi bàn việc nước. Cậu lại còn khéo tay biết cả thêu thùa nữa. Cả hai đều tự phụ rằng mình sẽ lấy được công chúa.

Cha các cậu cho mỗi người một con ngựa; cậu thuộc tự điển và báo chí được con ngựa đen; cậu thuộc luật và biết thêu thùa được con ngựa trắng như sữa. Họ còn dùng dầu hạnh nhân bôi nhờn mép để có thể nói được lâu.

Khi các cậu lên ngựa, quân hầu đầy tớ đến trực sẵn cả ở sân nhà dưới. Lúc đó cậu em giai thứ ba đến. Đúng là ba anh em, nhưng cậu thứ ba quá dốt nên chẳng ai đếm xỉa đến. Người ta chỉ gọi cậu là Giăng bị thịt mà thôi. Cậu hỏi các anh:

- Các anh đi đâu mà diện quần áo ngày hội thế?

- Đi lên kinh đô đàm đạo với công chúa đây. Mày không nghe quân lính đánh trống loan báo khắp nước à?

Rồi họ kể lại cho cậu nghe đầu đuôi câu chuyện. Giăng bị thịt bảo:

- Này, tôi sẽ đi với các anh.

Nhưng các anh cậu thì cười ồ lên và phi ngựa đi thẳng. Giăng bị thịt kêu lên:

- Thưa cha, xin cha cũng cho con một con ngựa. Con muốn lấy vợ lắm rồi. Nếu công chúa ưng lấy con thì lấy, nếu nàng không lấy thì con cũng cứ lấy nàng.

- Không! Chẳng có ngựa cho mày đâu. Mày không nên đợi, nói không nên lời, có đâu được lịch sự giỏi giang như các anh mày.

- Không có ngựa à? Được rồi, con sẽ cưỡi con dê của con, cần gì!

Cậu nhảy phóc lên con dê đực của cậu, lấy gót chân thúc cho nó mấy cái vào hông rồi thẳng đường cái quan ra đi.

Hấp ! Hấp ! Cậu phi nhanh phải biết!

- Có em đây! - Cậu gọi to và có tiếng vang đáp lại.

Hai người anh lặng thinh rong ruổi phía trước trên mình ngựa, họ chẳng nói chẳng rằng và còn mãi nghĩ đến những câu văn hoa cần phải nghiên cứu cho kỹ để đem ra thi thố với công chúa.

Giăng bị thịt gọi to:

- Hấp ! Hấp ! Có em đây. Em nhặt được vật này dọc đường đây này.

Nói rồi cậu giơ ra một con quạ chết.

- Bị thịt đáng thương ơi! Em định dùng cái của ấy làm gì thế?

- Tặng công chúa.

- À ! Hay đấy!

Họ vừa nói vừa cười rồi đi thẳng.

- Hấp ! Hấp ! Hấp ! Có em đây ! Các anh hãy xem đây: chẳng mấy khi nhặt được cái của này trên đường đâu.

Hai người quay lại, nhìn xem cái gì và nói:

- Bị thịt ! Chiếc guốc cùn ấy mày cũng định đem tặng công chúa chắc?

Bị thịt trả lời:

- Vâng, đúng thế đấy ạ.

Hai người lại cười rộ và phi ngựa bỏ đi trước rõ xa. Một lát sau bị thịt lại gọi to:

- Hấp ! hấp ! hấp ! Có em đây ! Quả thật mỗi lúc một phấn chấn, các anh ạ. Cái này thì tuyệt !

- Lại nhặt được gì nữa thế hử?

- Một thứ vô song, phen này công chúa hẳn phải vừa ý.

- Eo ơi ! Bùn bốc dưới cống lên đấy à?

- Vâng , đó là thứ bùn mịn nhất đấy ạ.

Nói rồi Bị thịt bốc bùn bỏ đầy túi. Các ông anh cho ngựa phi nước đại, đến cổng thành trước Giăng có đến 1 tiếng đồng hồ. Người ta phát số thứ tự cho những kẻ đến cầu hôn và họ đứng sắp hàng sau, chen nhau đến nỗi không nhúc nhích nổi cánh tay. Làm thế là cần thiết, nếu không họ sẽ đánh nhau vì người nọ tranh nhau đứng trước người kia.

Nhân dân đứng xúm quanh cung điện, nhìn qua cửa sổ để xem công chúa kén chồng. Thương thay cho các anh chàng! Vừa vào đến nơi đã tịt mít không nói được một tiếng.

Công chúa truyền:

- Đến lượt người khác.

Đến lượt một người anh của Bị Thịt, người đã học thuộc lòng quyển tự vị, nhưng chỉ mới đứng xếp hàng thôi, cu cậu đã quên ráo cả. Lúc bước trên sàn kêu kèn kẹt và nhìn vào trần lát toàn bằng gương, cậu thấy như là đi lộn ngược, đầu xuống đất, chân lên trời. Bên cửa sổ lại còn có ba viên lục sự và một pháp quan ngồi ghi chép các câu trả lời, ghi đến đâu lập tức được đăng lên tờ báo bán ở đầu phố, hai xu một số. Thế thì làm gì mà chẳng cuống cuồng ! Cũng cần nói thêm rằng lò sưởi đốt nhiều than đến nỗi trông cứ đỏ rực lên.

Anh chàng đến cầu hôn nói :

- Ở đây nóng quá!

Công chúa đáp:

- Là vì hôm nay vua cha cho quay gà.

Chết cha ! Thật là một vấn đề bất ngờ đối với cu cậu. Tịt ! Cu cậu đứng đực ra chẳng nói được lấy một tiếng nào, vì cu cậu còn đang mải sáng tác một câu thật dí dỏm. Thế là tịt ! Tịt ! Công chúa lại phán:

- Lại một tên nữa không ra gì. Đến lượt người khác!

Cu cậu phải chuồn, nhường chỗ cho người em. Anh chàng này lại nói:

- Ở đây nóng khiếp quá!

- Phải, tại hôm nay chúng tôi quay gà ấy mà.

- A ! A ! Thế nào kia?

Anh ta nói xong, các thầy ký lục vội vàng vào sổ : “A ! A ! Thế nào kia ?”

Công chúa phán:

- Lại một tên nữa không ra gì ! Đến lượt người khác !

Lúc ấy đến lượt Giăng bị thịt. Cậu dắt cả con dê vào phòng và kêu to:

- Nóng gì mà nóng khiếp thế này.

Công chúa nói:

- Là vì chúng tôi đang luộc gà.

Bị thịt đáp ngay:

- Ồ ! Thế thì còn gì bằng! Cho luộc nhờ con quạ này được không?

- Được lắm chứ! Công chúa nói; nhưng anh có cái gì đựng không? Ta không có nồi cũng chả có xoong đâu.

- Có đây, nồi đây!

Nói rồi Bị thịt chìa chiếc guốc cùn ra và đặt con quạ vào trong.

Công chúa bảo:

- Thế thì được bữa ăn ngon đấy; nhưng lấy đâu ra nước sốt?

- Trong túi đây – Giăng nói – mà còn có thừa để bán lại nữa kia đấy!

Nói rồi cu cậu móc trong túi ra một ít bùn.

Công chúa nói:

- Được đấy! Anh trả lời được đấy, biết ăn nói đấy. Anh sẽ là chồng ta. Nhưng anh có biết rằng từng câu, từng chữ chúng ta đang nói và đã nói đều được ghi bằng tốc ký và sẽ đăng trên báo không? Anh có trông thấy ba viên lục sự và vị pháp quan già ngồi gần cửa sổ kia không? Lão già ấy gớm lắm, đúng là một con diều hâu!

Dọa thế, công chúa tưởng Giăng bị thịt sợ; vừa lúc ấy ba viên lục sự cũng phùng mang trợn mắt, hất đổ cả lọ mực xuống đất. Giăng nói:

- Các ngài này ấy à? Được, ta sẽ biếu viên pháp quan phần lớn nhất.

Nói rồi Giăng bị thịt lộn trái túi áo lấy bùn ném vào đầy mặt viên pháp quan.

Công chúa reo lên:

- Hoan hô ! Hoan hô ! Đến ta cũng không nghĩ ra, nhưng bây giờ thì ta học được cách xử sự ấy rồi.

Giăng bị thịt được làm vua, vừa được vợ, vừa được cả mũ miện lẫn ngai vàng.

Câu chuyện này tôi đọc được trong một tờ báo do viên pháp quan viết, nhưng truyện này liệu có đáng cho chúng ta tin hay không nhỉ ?



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:33  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Con quỷ sứ của ông hàng tạp hóa



Hans Christian Andersen



Ngày xưa có một anh chàng sinh viên nghèo, thật thà, ngay thẳng, sống trong một căn gác xép, chẳng có lấy một tí gì. Cũng trong nhà ấy lại có một ông bán hàng tạp hóa lương thiện và là chủ nhà. Bạn của ông là một con quỷ sứ. Đêm Noel ông cho nó một bát bột ngào sữa và một mẩu bơ to tướng. Con quỷ sứ ở ngay trong cửa hàng, nơi nó biết đến là lắm chuyện.

Một buổi tối kia, chàng sinh viên đi cửa sau vào mua nến và phó mát. Chàng không có ai giúp việc và vẫn phải tự đi mua lấy các thứ. Người ta giao hàng và chàng trả tiền. Vợ chồng nhà hàng gật đầu chào chàng.
Chàng sinh viên đáp lễ và dừng lại đọc tờ giấy gói miếng phó mát của mình. Đó là một tờ giấy xé ở một cuốn sách cũ, lẽ ra không nên xé vì cuốn sách ấy là một tập thơ.

Ông chủ hàng bảo :

- Cuốn sách ấy có nguyên vẹn đâu. Có một bà lão đem đổi cho tôi lấy một nắm càphê đấy mà. Đưa tôi tám siling, tôi sẽ đưa nốt chỗ còn lại cho anh.

- Không. Có đổi lấy miếng phó mát thì đổi. Tôi ăn bánh mì với bơ thôi cũng đủ. Xé một cuốn sách như vậy thật đáng tiếc. Bác là một con người khôn ngoan và thực tế, nhưng đối với thơ ca, bác cũng chỉ hiểu biết đại khái như cái sọt này mà thôi !

Nói như thế cũng khá vô lễ, nhất là đối với cái sọt, nhưng ông chủ hàng vẫn cười, anh sinh viên cũng cười…

Họ đùa nhau, nhưng con quỷ sứ thấy có người nói như vậy tức lắm, vì ông chủ hiệu tạp hóa bán loại bơ ngon nhất, lại là chủ của nó.

Đến đêm, lúc mọi người đi ngủ cả, trừ chàng sinh viên, con quỷ sứ bèn lẻn vào buồng bà chủ lấy hàm răng giả của bà. Cái hàm răng ấy có phép kỳ diệu. Chỉ cần đặt nó lên bất kỳ vật gì trong buồng, lập tức vật ấy sẽ nói được và sẽ phát ra những tư tưởng và cảm xúc của nó, không kém gì bà chủ, có điều là không bao giờ nói cùng với bà ta cả; thế cũng may, nếu không thì đâm ra cả hai cùng nói trong mồm.

Con quỷ sứ đặt hàm răng vào trong sọt đựng báo cũ và hỏi sọt :

- Có đúng là mày không biết thơ là gì phải không ?

- Biết lắm chứ - sọt nói – thơ là cái ta vẫn thấy ở phía dưới các tờ báo và thường được người ta cắt ra ấy mà. Tôi tưởng rằng tôi còn chứa nhiều thơ hơn một anh sinh viên ấy chứ, nhưng ví với ông chủ thì tôi còn kém xa.

Con quỷ đặt hàm răng giả lên cái cối xay cà phê, rồi đặt lên hũ đựng bơ và ngăn kéo đựng tiền. Chúng đều đồng ý kiến với cái sọt. Phải tôn trọng ý kiến của đa số.

Quỷ sứ nói :

- Thôi đến lượt anh sinh viên!

Nó trèo lên thang gác nhà bếp, lên đến tận căn gác xép tồi tàn của chàng sinh viên. Bên trong vẫn còn sáng. Con quỷ sứ nhòm qua lỗ khóa thấy chàng sinh viên đang ngồi đọc những trang sách nát trong cuốn sách của ông chủ hàng. Nhưng sao căn phòng lại sáng đến thế ! Cuốn sách phát ra một tia sáng tỏa ra như một gốc cây, vươn lên rất cao và xõa cành trên đầu người đọc sách. Tấm lá nào cũng tốt tươi, mỗi đóa hoa là một cái đầu thiếu nữ xinh tươi với những cặp mắt huyền đen láy hoặc những đôi mắt xanh cực kỳ trong sáng. Mỗi quả là một vì sao lấp lánh và trong phòng vang lên tiếng đàn hát mê hồn.

Quỷ sứ chưa từng hình dung nổi những cảnh tuyệt vời như thế bao giờ. Nó kiễng chân, đứng đực ra đấy, mắt nhìn chằm chằm, cho đến khi ánh sáng trong phòng vụt tắt đi.

Sau lúc chàng sinh viên đi ngủ, quỷ sứ vẫn không nhúc nhích vì tiếng hát vẫn ngân lên êm ái và quyến rũ ru cho chàng sinh viên ngủ.

Quỷ sứ lầm bầm :

- Thế mới tuyệt vời chứ! Mình không ngờ đấy. Không biết có nên đến ở với anh sinh viên này không nhỉ?

Nó suy nghĩ hồi lâu rồi tự nhủ :

- Nhưng hắn lấy đâu ra bột ngào sữa cho mình ăn?

Nghĩ thế nó quyết định trở về ở với ông chủ hàng tạp hóa.

Nó về vừa đúng lúc vì cái sọt dùng hàm răng giả nói quá nhiều nên đã gần mòn hết. Quỷ sứ mang hàm răng giả về trả cho bà chủ. Nhưng từ đó trở đi, cả cửa hàng, từ ngăn kéo đựng tiền cho đến hũ bơ đều tán thành ý kiến của sọt, đều kính nể và hoàn toàn tin tưởng ở sọt. Thậm chí đến ông chủ hàng đọc bài “Tin tức văn nghệ và sân khấu” đăng trong tờ báo buổi chiều cũng cứ tưởng là bài của sọt.

Nhưng quỷ sứ còn không ngồi yên được lấy một lúc. Khoa học và đạo lý thu lượm được trong hàng tạp hóa đối với nó là không đủ.

Đèn vừa thắp trong kho thóc thì dường như có những tia sáng như những sợi dây thừng kéo nó lên trên gác. Nó chạy vội lên nhìn qua lỗ khóa và lúc đó một cảm giác mạnh mẽ nổi lên trong người nó, giống như người đi bể gặp phong ba.

Chẳng hiểu sao nó khóc òa lên và cảm thấy nguôi nguôi qua hàng lệ.

Giá được ngồi bên chàng sinh viên dưới gốc cây lớn thì thú vị biết bao!

Than ôi! Không được. Nó đành nhìn qua lỗ khóa vậy.

Gió bắt đầu thổi qua kẽ hở trên mái nhà, nhưng nó vẫn đứng đấy, đứng trên ván gác giá lạnh.

Dẫu có rét đến mấy nó cũng chẳng bao giờ cảm thấy gì trước khi ánh sáng trong phòng tắt đi và tiếng ca nhạc im hẳn. Chỉ đến lúc ấy nó mới cảm thấy cóng, nó run rẩy trở về cửa hàng; dưới ấy mới dễ chịu và ấm áp, ấy là chưa nói đến món bột ngào sữa đêm Noel và mẫu bơ to tướng.

Ông hàng tạp hóa còn giữ được nó là ở chỗ đó. Một đêm kia, tiếng ồn ào dữ dội làm quỷ sứ bừng tỉnh. Nhìn qua cửa sổ nó thấy thiên hạ đang kêu cứu.

Bác tuần canh đang báo động.

Cháy sáng rực cả phố. Cháy cửa hàng tạp hóa hay cháy nhà bên cạnh? Thật là khủng khiếp! Bà hàng kinh hoảng đến nỗi tháo ngay hoa tai bỏ vào túi, nghĩ rằng mình cũng đã chạy được chút đỉnh. Ông hàng chạy cái két bạc và chị người ở chạy cái khăn vuông bằng lụa của chị.

Ai cũng muốn chạy vật gì quý giá nhất.

Quỷ sứ nhảy lên. Đến tận buồng anh sinh viên; anh ta đang lặng lẽ đứng trước cửa sổ xem đám cháy phát ra từ nhà bên cạnh. Quỷ sứ vớ lấy quyển sách kỳ diệu đang để trên bàn, nhét vào cái mũ trùm đầu màu đỏ của nó và giữ khư khư bằng cả hai tay: thế là của quý nhất nhà vẫn còn nguyên chưa việc gì !

Nó chui qua ống khói, chuồn lên mái nhà. Nó ngồi đấy, ngồi trong ánh lửa của căn nhà bên cạnh đang cháy, hai tay giữ cái mũ màu đỏ của nó, trong đựng của quý.

Giờ đây nó đã biết tâm hồn nó phải ngả về đâu và con người nó thuộc về ai. Nhưng khi đám cháy tắt thì lý trí lại thắng thế. Nó tuyên bố:

- Ta sẽ sống san sẻ với cả hai người. Không thể bỏ đứt ông chủ hàng tạp hóa được, vì món bột ngào sữa quả thật là ngon quá.

Điều đó cũng rất “con người” vậy.

Chúng ta cũng thế thôi, chúng ta cũng sẽ quay trở về với ông chủ hàng tạp hóa chỉ vì món bột ngào sữa.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:34  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Em bé bán diêm


Hans Christian Andersen







Rét dữ dội. Tuyết rơi. Trời đã tối hẳn. Đêm nay là đêm giao thừa.

Giữa trời đông giá rét, một em gái nhỏ đầu trần, chân đi đất, đang dò dẫm trong đêm tối.

Lúc ra khỏi nhà em có đi giày vải, nhưng giày vải phỏng có tác dụng gì kia chứ !

Giày ấy của mẹ em để lại, rộng quá, em đã liên tiếp làm văng mất cả hai chiếc khi em chạy qua đường, vào lúc hai chiếc xe ngựa đang phóng nước đại.

Chiếc thứ nhất bị xe song mã nghiến, rồi dính theo tuyết vào bánh xe; thế là mất hút. Còn chiếc thứ hai, một thằng bé lượm được, cười sằng sặc, đem tung lên trời. Nó còn nói với em bé rằng nó sẽ giữ chiếc giày để làm nôi cho con chó sau này.

Thế là em phải đi đất, chân em đỏ ửng lên, rồi tím bầm lại vì rét.

Chiếc tạp dề cũ kỹ của em đựng đầy diêm và tay em còn cầm thêm một bao.

Em cố kiếm một nơi có nhiều người qua lại. Nhưng trời rét quá, khách qua đường đều rảo bước rất nhanh, chẳng ai đoái hoài đến lời chào hàng của em.

Suốt ngày em chẳng bán được gì cả và chẳng ai bố thí cho em chút đỉnh. Em bé đáng thương, bụng đói cật rét, vẫn lang thang trên đường. Bông tuyết bám đầy trên mái tóc dài xõa thành từng búp trên lưng em, em cũng không để ý.

Cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Chả là đêm giao thừa mà ! Em tưởng nhớ lại năm xưa, khi bà nội hiền hậu của em còn sống, em cũng được đón giao thừa ở nhà. Nhưng thần chết đã đến cướp bà em đi mất, gia sản tiêu tán và gia đình em đã phải lìa ngôi nhà xinh xắn có dây trường xuân leo quanh, nơi em đã sống những ngày đầm ấm, để đến chui rúc trong một xó tối tăm, luôn luôn nghe những lời mắc nhiếc, chửi rủa.

Em ngồi nép trong một góc tường, giữa hai ngôi nhà, một cái xây lùi lại một chút.

Em thu đôi chân vào người, nhưng mỗi lúc em càng thấy rét buốt hơn.

Tuy nhiên em không thể nào về nhà nếu không bán được ít bao diêm, hay không ai bố thí cho một đồng xu nào đem về; nhất định là cha em sẽ đánh em.

Vả lại ở nhà cũng rét thế thôi. Cha con em ở trên gác, sát mái nhà và, mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các kẽ hở trên vách, gió vẫn thổi rít vào trong nhà. Lúc này đôi bàn tay em đã cứng đờ ra.

Chà ! Giá quẹt một que diêm lên mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ ? Giá em có thể rút một que diêm ra quẹt vào tường mà hơ ngón tay nhỉ ? Cuối cùng em đánh liều quẹt một que diêm. Diêm bén lửa thật là nhạy. Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biếc đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt.

Em hơ đôi tay trên que diêm sáng rực như than hồng. Chà ! Ánh sáng kỳ diệu làm sao ! Em tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng. Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng.

Thật là dễ chịu ! Đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa; bên tay cầm diêm, cái ngón cái nóng bỏng lên. Chà ! Khi tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút mà được ngồi hàng giờ như thế, trong đêm đông rét buốt, trước một lò sưởi, thì khoái biết bao!

Em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất. Em ngồi đó, tay cầm que diêm đã tàn hẳn. Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm; đêm nay, về nhà thế nào cũng bị cha mắng.

Em quẹt que diêm thứ hai, diêm cháy và sáng rực lên. Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màn. Em nhìn thấu tận trong nhà. Bàn ăn đã dọn, khăn trải trắng tinh, trên bàn bày toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều kỳ diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi dĩa và mang cả dao ăn, phóng sết, cắm trên lưng, tiến về phía em bé.

Rồi... que diêm vụt tắt; trước mặt em chỉ còn là những bức tường dầy đặc và lạnh lẽo.

Thực tế đã thay thế cho mộng mị: chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, mà chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xoá, gió bấc vi vu và mất ngừơi khách qua đường quần áo ấm áp vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của em bé bán diêm.

Em quẹt que diêm thứ ba. Bỗng em thấy hiện ra một cây thông Noel. Cây này lớn và trang trí lộng lẫy hơn cây mà em đã được thấy năm ngoái qua cửa kính một nhà buôn giàu có. Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong các tủ hàng, hiện ra trước mắt em bé. Em với đôi tay về phía cây... nhưng diêm tắt. Tất cả những ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời.

- Chắc hẳn có ai vừa chết, em bé tự nhủ, vì bà em, người hiền hậu độc nhất đối với em, đã chết từ lâu, trước đây thường nói rằng: "Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với thượng đế".

Em quẹt một que diêm nữa vào tường, một ánh sáng xanh tỏa ra xung quanh và em bé nhìn thấy rõ ràng là bà em đang mỉm cười với em.

- Bà ơi ! Em bé reo lên, cho cháu đi với ! Cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi mất như lò sưởi, ngỗng quay và cây Noel ban nãy, nhưng xin bà đừng bỏ cháu ở nơi này; trước kia, khi bà chưa về với thượng đế chí nhân, bà cháu ta đã từng sung sướng biết bao ! Dạo ấy bà đã từng nhủ cháu rằng nếu cháu ngoan ngoãn cháu sẽ được gặp lại bà; bà ơi! cháu van bà, bà xin với Thượng Đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu.

Que diêm tắt phụt và ảo ảnh rực sáng trên khuôn mặt em bé cũng biết mất.

Thế là em quẹt tất cả những que diêm còn lại trong bao. Em muốn níu bà em lại ! Diêm nối nhau chiếu sáng như giữa ban ngày. Chưa bao giờ em thấy bà em to lớn và đẹp lão như thế này. Bà cụ cầm lấy tay em, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi, chẳng còn đói rét, đau buồn nào đe dọa họ nữa. Họ đã về với Thuợng đế.

Sáng hôm sau, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh nhợt. Mọi người vui vẻ ra khỏi nhà.

Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường người ta thấy một em gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa.

Ngày mồng một đầu năm hiện lên trên tử thi em bé ngồi giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn. Mọi người bảo nhau: "Chắc nó muốn sưởi cho ấm!." Nhưng chẳng ai biết những cái kỳ diệu em đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:35  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Nàng công chúa và hạt đậu




Hans Christian Andersen



Ngày xưa, có một hoàng tử muốn cưới một nàng công chúa, nhưng công chúa phải cho ra công chúa, phải hoàn thiện toàn mỹ. Hoàng tử bèn chu du khắp thiên hạ để kén vợ. Công chúa thì chẳng thiếu gì, nhưng nàng nào cũng có vài nhược điểm hoặc tật xấu. Thế là một ngày kia, hoàng tử đành buồn rầu trở về nhà.

Đến tối, nổi lên một cơn giông tố kinh khủng. Mưa ào ào như xối. Có tiếng gõ cửa lâu đài. Lão vương thân chinh ra mở cửa.

Bên ngoài là một nàng công chúa, nhưng mưa gió đã làm cho nàng tiều tụy quá thể. Đầu tóc, quần áo nàng võng những nước và còn nhỏ giọt từ mũi xuống giầy nàng. Nàng tự giới thiệu nàng là công chúa toàn thiện toàn mỹ mà hoàng tử đang chờ đợi. Hoàng hậu nghĩ thầm: "Được, cứ để xem xem !" . Rồi hoàng hậu vào buồng ngủ thắp đèn lên và nhét một hạt đậu xuống dưới đệm giường. Sau đó ngài đặt hai mươi cái đệm chồng lên trên cái đệm đã đặt trước. Đấy chính là cái giường dành cho công chúa.

Sáng ra người ta hỏi thăm đêm qua nàng ngủ có yên giấc không. Nàng đáp :

- Suốt đêm tôi không chợp mắt, vì nằm phải vật gì răn rắn, thâm tím cả mình mẩy.

Hoàng hậu bèn phán :

- Công chúa ra công chúa thật ! Đây chính là nàng công chúa toàn thiện toàn mỹ, nằm trên hai mươi lần đệm nàng vẫn thấy đau vì một hạt đậu.

Hoàng tử cưới nàng làm vợ và hạt đậu được bày trong một phòng triển lãm, đến giờ vẫn vào xem được, vì chưa có ai lấy đi cả.

Chuyện tôi kể đến đây là hết và tôi xin cam đoan với các bạn là chuyện có thật đấy.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:37  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Đôi giầy đỏ



Hans Christian Andersen





Karen là một cô gái nhỏ rất xinh xắn và rất ngoan. Mẹ cô nghèo nên cô chẳng có giầy dép gì, mùa hè đi chân đất, mùa đông đi guốc gỗ, chân không chịu được rét, đỏ ửng lên.

Trong làng có một bà thợ giầy già. Thương cô bé, bà nhặt những mẩu da đỏ chắp vá cho cô bé một đôi giầy. Đôi giầy ấy chẳng lấy gì làm đẹp lắm vì bà lão phúc hậu ấy mắt đã kém, tay lại run, nhưng bà lão đã tặng vật ấy cho Karen với tấm lòng trìu mến. Cô bé thích quá.

Ngay ngày hôm ấy mẹ cô qua đời. Đúng ra, nhà có tang không được đi giầy đỏ. Nhưng vì không có đôi giầy nào khác nên cô bé đành phải đi giầy đỏ vậy. Cô bé vừa đi vừa khóc rũ rượi. Chợt có một cỗ xe ngựa lớn và cũ đi qua, trên có một bà quí phái già. Trông thấy cô bé mồ côi đang nức nở, bà động lòng thương, nói với cụ đạo hỏi xin cô bé. Bà nói:

- Cụ cho tôi xin cô bé này, tôi sẽ đem về nuôi nấng và chăm sóc cẩn thận.

Lúc đầu Karen cứ tưởng bà già lưu ý đến em vì em có đôi giầy đẹp, nhưng bà lại bảo đôi giầy xấu lắm phải vứt đi. Rồi bà cho em ăn mặc đẹp đẽ sạch sẽ, lại cho em học viết, học đọc, học may vá. Mọi người khen em đẹp và ngoan. Nhìn vào gương, gương cũng bảo em đẹp và ngoan.

Một hôm nhà vua, hoàng hậu và công chúa ngự giá đến thành phố gần đấy. Nhân dân nô nức kéo nhau đến chiêm ngưỡng long nhan. Cô bé Karen cũng theo người lớn đến xem. Cô trông thấy công chúa bận toàn xatanh trắng đứng trên bao lơn để cho mọi người dân trông thấy. Dưới chân công chúa đi đôi giầy da dê màu đỏ rất đẹp, khác hẳn đôi giầy bà cụ thợ giầy nghèo phúc hậu đã tặng Karen.

Đến ngày Karen chịu lễ thêm sức, bà quý phái may cho cô quần áo đẹp và dẫn cô đến nhà người thợ giầy giỏi nhất thành phố thuê đóng cho cô một đôi giầy. Đến nơi, Karen chìa đôi chân bé nhỏ cho bác thợ giầy đo. Cô nhìn chung quanh thấy trong tủ có một đôi giầy đỏ cũng đẹp như đôi giầy công chúa đi hôm trước. Karen reo lên: Đôi giầy mới đẹp làm sao! Cháu thích đôi giầy ấy lắm! Bác cho cháu đi thử nếu vừa thì bán cho cháu. Bác thợ giầy đưa cho bé thử và nói:

- Đôi giầy này là của con gái vị bá tước đặt, nhưng nhỏ quá đi chật không vừa nên tôi còn để đây.

- Giầy bằng da dê phải không, bà quý phái nói, trông bóng bẩy và đẹp quá!

- Thưa vâng, bằng da dê đấy ạ.

Đôi giầy Karen đi rất vừa nên bà quý phái mua ngay cho em. Nhưng bà không biết là màu đỏ, vì bà kém mắt; nếu biết màu đỏ, bà đã không để cho Karen đi vào ngày chịu lễ thêm sức.

Thấy Karen đi giầy đỏ vào nhà thờ mọi người lắc đầu. Khi đi qua ngưỡng cửa tất cả các bức tranh treo trên tường chằm chằm nhìn cô. Karen không những không ngượng mà còn hãnh diện. Cụ đạo nhắc nhở Karen về bổn phận của cô gái đến tuổi biết suy nghĩ và bước vào hàng ngũ con chiên. Đại phong cầm vang lên điệu nhạc thánh ca. Dàn hợp xướng nhi đồng cũng nổi lên bài hát cầu ngắm nghía đôi giầy đỏ đẹp như giầy của công chúa.

Chiều hôm ấy nghe mọi người xì xào bà quý phái mới biết. Bà bảo cô bé:

- Vào nhà thờ dự lễ, lại đi giầy đỏ như thế là ngạo nghễ. Từ nay đã bước chân đến nhà thờ phải đi giầy đen, dù cũ dù rách cũng phải đi.
Chủ nhật sau Karen phải đi chịu lễ ban thánh thế. Nhớ lời bà quý phái dặn, Karen đã đi giầy đen vào. Nhưng nhìn đi nhìn lại đôi giầy đỏ, thấy đẹp hơn, cô bé lại tháo giầy đen ra, đi giầy đỏ.

Hôm ấy trời đẹp. Muốn tận hưởng ánh nắng ấm áp, bà cụ quý phái dẫn Karen đi qua các con đường nhỏ rồi mới ra đường cái để đến nhà thờ. Họ phải đi qua con đường đầy bụi. Một ông cụ già thương binh chống gậy thấy hai người đi đến. Ông cụ xin bà già quý phái cho đánh giầy. Bà già đồng ý, Karen chìa đôi giày nhỏ nhắn cho ông cụ chải bụi.

- Chà đôi giầy khiêu vũ đẹp quá! Khi khiêu vũ cô phải cho giầy bám chặt vào chân kẻo rơi.

Bà quý phái cho ông lão tàn tật một đồng bạc rồi cùng Karen bước vào nhà thờ. Cả cử toạ trợn to mắt nhìn đôi giầy đỏ. Các bức chân dung treo trên tường cũng dán mắt vào đôi giầy. Còn Karen thì cứ mải nhìn đôi giầy quên cả cầu nguyện khi chịu ban lễ thánh thể, cô lơ đãng chỉ nghĩ đến đôi giầy đỏ dưới chân. Cô cứ tưởng chung quanh người ta ghen tị với cô vì đôi giầy đỏ.

Ở nhà thờ ra, bà quý phái lên chiếc xe đã chờ sẵn ngoài cửa. Karen cũng bước lên theo.

Ông già tàn tật lúc này vẫn đang còn đấy. Trông thấy Karen, ông lại tấm tắc.

- Đôi giầy khiêu vũ đẹp thật!

Bỗng Karen thấy người như nhấc bổng lên, đôi chân nhún nhảy liên hồi, muốn ghìm không được.

Người đánh xe ôm vội lấy cô ấn vào xe. Vào xe rồi cô bé vẫn nhảy, đá cả vào bà già quý phái. Nhưng rồi xe cũng về đến nhà. Chị hầu phòng phải bế vội cô bé vào, tháo ngay đôi giầy quái gở ra, không thì còn nhảy nhót mãi. Bấy giờ ai chân Karen mới được nghỉ ngơi.

Đôi giầy được bỏ vào tủ, khoá chặt lại. Mỗi ngày Karen đến ngắm ngía hàng chục lần.

Được ít lâu bà già quý phái ốm, cần có người ở bên trong nom chăm sóc. Đấy là nhiệm vụ của Karen. Cũng vào hôm ấy cô lại nhận được giấy mời đi dạ hội. Cô đã nghĩ mình phải ở nhà để chăm sóc ân nhân. Nhưng rồi cô lại nghĩ bà già chẳng còn sống được bao lâu, chăm sóc có ích gì! Thế là Karen mở tủ lấy giầy, đôi giầy đỏ vẫn cất đấy từ lâu. Sỏ chân vào giầy cô nghĩ đi dạ hội mang giầy này có sai sót gì.

Thế là cô ra đi. Nhưng vừa bước chân ra khỏi cửa hai chân đã lại nhảy nhót, hết đập vào nhau, lại nhảy sang phải, rồi nhảy sang trái. Thấy cô xinh đẹp, nhảy khéo, người đi đường dừng cả lại xem. Suốt dọc đường từ nhà nơi đến dạ hội, Karen cứ nhảy nhót như thế đến nỗi mệt lử không còn lê vào hội trường được nữa. Cô phó mặc cho đôi giầy đưa khắp nơi qua các phố, rồi ra ngoại thành đến các khu rừng xa. Đến đây cô bé lại nhìn thấy ông lão tàn tật. Ông lão nói:

- Chào cô em xinh đẹp. Cô có đôi giầy khiêu vũ kháu quá.

Đến lúc này Karen mới nhận ra lão già tàn tật là một tên phù thuỷ. Lão đến không phải xin đánh giày để kiếm tiền mà để phù phép. Cô bé phát hoảng lên, muốn trút bỏ đôi giầy, nhưng không sao lôi ra được. Đôi giầy cứ dính chặt vào chân và bắt cô bé phải cử động liên hồi, không sao ngồi xuống được.

Cô bé cứ nhảy nhót như thế, băng qua đồng cỏ, ruộng mương, rừng núi, chẳng được nghỉ ngơi lấy một giây, chẳng kịp lấy lại hơi thở. Hết ngày nọ qua ngày kia cô bé không ngớt quay cuồng cả dưới ánh nắng như lửa đốt, cả trong giá lạnh và mưa rào.

Cô bị cuốn vào một nghĩa địa, cố bám lấy một ngôi mộ, nhưng lại bị bật ra ngay, không sao níu được. Cô lại bị lôi đến một nhà thờ, cô muốn ẩn vào thánh thất cầu xin thượng đế xá cho tội đã ngạo mạn người.

Nhưng một vị tiên cánh dài chấm đất, thái độ nghiêm khắc, vung thanh gươm sáng loáng bảo cô:

- Con cứ nhảy đi, nhảy mãi với đôi giầy đỏ mà con quý hơn mọi cái, nhảy cho đến lúc chỉ còn da bọc xương, cho đến thân tàn ma dại. Khi nào qua nhà những đứa trẻ hay sĩ diện và tự phụ, con hãy gõ cửa gọi chúng ra xem để chúng biết tính kiêu ngạo thiệt hại như thế nào. Nhảy đi! Nhảy mãi đi!

- Xin tha tội! Xin tha tội cho tôi.

Karen kêu van nhưng đôi chân đã kéo cô đi xa không nghe thấy tiếng trả lời của vị tiên nữa.

Hôm sau cô bé đến một ngôi nhà trông quen thuộc. Một đám người mặc đồ tang đưa từ trong ra một cỗ quan tài trên trải đầy hoa. Đó là đám ma bà già quý phái, ân nhân của Karen. Karen đã bỏ mặc bà ở nhà để đi khiêu vũ. Karen cảm thấy có tội.

Đồi giầy vẫn tiếp tục lôi cô bé đi qua núi non, rừng rậm, gai góc cào rách cả mặt, xước cả chân tay. Rồi cô đến trước cửa một nhà mà cô biết là đao phủ. Cô đập cửa gọi:

- Ông ơi! ông ra đây! Cháu van ông! Cháu không vào được. Đôi giầy cứ bắt chân cháu quay cuồng liên tục, không sao ngừng được.

- Gọi ra làm gì? Cô biết ta là ai không? Ta là người chặt đầu những kẻ gian ác. Búa tạ đang reo lên đây hẳn là sắp có việc.

- Vâng! Karen nói - Nhưng xin ông đừng chặt đầu cháu, để cháu còn sám hối; ông chặt chân cháu thôi.

Nói thế rồi cô bé thu hết tội lỗi đã ngạo mạn. Đao phủ túm chặt cô chặt một nhát đứt phăng hai chân.

Hai chân vẫn tiếp tục quay cuồng mang theo đôi giầy đỏ, biến thẳng vào rừng, sau đấy cô bé đi đến nhà thờ để mọi người thấy rằng cô đã được xá tội.

Nhưng vừa tới nhà thờ, cô đã thấy đôi chân đi giầy đỏ của cô đã lại đang nhảy múa ở đấy rồi. Cô bé ù té chạy.

Cô lang thang khắp chốn, sống nhờ của bố thí. Cô buồn phiền, nước mắt tuôn rơi như suối.

Cô bé rời nhà thờ đến nhà ông mục sư xin ông được làm người giúp việc, xin nhận mọi công việc có thể làm được, miễn là ít phải đi lại và không hỏi công xá gì, chỉ càn có chỗ dung thân mà thôi.

Bà vợ ông mục sư thương tình giữ cô lại. Karen đã tỏ ra quyết tâm tiến bộ và chăm chỉ làm việc. Cô trở nên trầm tĩnh, lặng lẽ. Buối tối khi ông mực sư đọc kinh, cô chú ý lắng nghe. Các em nhỏ rất quý cô, nhưng hễ thấy chúng khoe khoang với nhau, đứa nào xinh, đứa kia có quần áo đẹp là cô khuyên nhủ bảo rằng đó là những thói xấu cần phải tránh.

Đến một ngày lễ, mọi người đến nhà thờ dự lễ. Cô không đi được, thấy buồn, khóc thút thít. Cô leo lên gian phòng nhỏ của mình quỳ xuống đọc kinh. Giữa lúc đang tĩnh tâm cầu nguyện, tiếng đại phong cầm vọng đến. Cô ngước mắt nhìn lên trời cầu khẩn: "Xin thượng đế hãy cứu vớt con".

Bỗng quanh mình cô ánh hào quang rực sáng. Trước mặt cô hiện ra một tiên cô đã trông thấy ở nhà thờ hôm trước. Những lúc này vị tiên không cầm gươm mà cầm một bông hồng rực rỡ. Người đẩy bông hông lên trần nhà, tức thì các bức tường mở ra, Karen được đưa vào giữa nhà thờ. Tiếng đại phong cầm vang lên, khi bài hát chấm dứt, ông mục sư nhìn thấy cô và bảo:

- Con đã đến đấy à? Tốt lắm!

Cô bé đáp:

- Thượng đế xá tội cho con rồi!

Tiếng đại phong cầm lại vang lên. Các em nhỏ cất tiếng hát bài cầu nguyện. Một tia nắng rực rỡ xuyên qua cửa kính, rọi vào Karen. Tim cô tràn đầy sung sướng, hồn cô lao theo tia nắng lên thiên đường.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:38  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Anh chàng chăn lợn






Hans Christian Andersen




Ngày xưa, có một hoàng tử rất nghèo chỉ có một giang sơn nhỏ hẹp. Tuy nhiên, giang sơn ấy nhỏ thì nhỏ thật, nhưng cũng đủ để cho chàng kén được một người vợ và lúc này chính là lúc chàng đang muốn tìm người làm bạn trăm năm.

Chàng rất sẵn sàng hỏi công chúa con hoàng đế : "Nàng có bằng lòng kết duyên với ta không ?" Chàng rất có thể làm thế, vì danh tiếng của chàng vang lừng khắp vùng và có thể đến hàng trăm công chúa nghe chàng hỏi như thế sẽ trả lời : "Vâng"

Nhưng đây lại là con gái hoàng đế ! Các bạn hãy nghe đầu đuôi câu chuyện :

Trên mộ vua cha mọc một cây hồng. Trời ! Cây hồng mới đẹp làm sao ! Cứ năm năm nó mới ra hoa một lần, lại chỉ mọc có một đóa, nhưng đó là một đóa hồng thơm dịu đến nỗi chỉ ngửi hoa thôi cũng đủ quên hết ưu phiền. Hoàng tử lại còn có một con họa mi hót hay tuyệt vời. Từ cái cổ họng nhỏ xíu của nó phát ra những khúc điệu thánh thót. Con gái hoàng đế nghe họ đồn vậy muốn có cả hoa hồng và họa mi. Hoàng tử bèn đặt cả hai thứ vào hai tráp bạc gửi biếu nàng.

Hoàng đế cho đem những thứ ấy đến cho ngài xem trong đại điện, nơi công chúa đang chơi trò tiếp khách với các cung nữ. Vừa nhìn thấy những tráp bạc, nàng vỗ tay hoan hỉ reo lên :

- Ước gì được con mèo con thì thú quá !

Nhưng người ta lại lôi cây hồng ra trước.

Các cung nữ rú lên :

- Ố ! Đẹp quá !

Hoàng đế nói :

- Đẹp, chưa đủ, phải nói là tuyệt mỹ mới xứng.

Nhưng công chúa chạy ra ngửi hoa và phụng phịu nói :

- Ồ ! Tâu phụ vương, hoa thật chứ không phải hoa giả !

Bọn nịnh thần phụ hoạ :

- Ôi chao ! Hoa hồng thật !

Hoàng đế phán :

- Hãy xem cái tráp kia đựng gì đã, rồi hãy bực mình cũng chưa vội.

Người ta mở tráp cho con họa mi ra. Nó cất tiếng ca thánh thót, hay không còn chê vào đâu được.

Bọn cung nữ nói bằng một thứ tiếng Pháp rất dở như họ thường dùng :

- Charmant ! Merveilleux ! (Dễ thương quá ! Tuyệt quá !)

Một lão nịnh thần tán :

- Con chim này làm hạ thần nhớ lại đến cái hộp đựng thuốc bào có máy hát của cố hoàng hậu, giống như hệt, từ giọng cho đến điệu.

- Đúng lắm ! Đúng lắm ! Hoàng đế nói rồi òa lên khóc như một đứa trẻ con.

Công chúa nói :

- Không thể tin đây lại là một con họa mi thật.

Những người đem chim đến vội tâu :

- Thưa đúng là chim thật đấy ạ !

- Thế thì cho nó bay đi thôi !

Và nàng kiên quyết không cho hoàng tử vào cung.

Nhưng chàng không hề nản lòng. Chàng lấy phẩm nâu và phẩm đen bôi lên mặt, kéo mũ sụp xuống tận mắt, giả vờ đi khập khiễng, bước vào trình diện và nói :

- Thánh thượng vạn tuế ! Cúi xin thánh thượng cho kẻ bầy tôi vào hầu hạ trong hoàng cung.

- Có nhiều người xin việc quá rồi. Nhưng ta cần một người chăn lợn, nhà ngươi có làm được việc ấy không ?

Hoàng tủ nhận chăn lợn. Người ta cho chàng một căn buồng tồi tàn gần chuồng lợn. Chàng cặm cụi suốt ngày và ngay tối đầu tiên chàng đã làm xong một cái nồi xin xắn có gắn đầy nhạc. Mỗi khi đặt nồi lên bếp, nhạc rung lên một điệu khúc cổ xưa của nước Đức.

Ach ! du lieber Augustin !
Alles ist vack, vack, vack !
( Ô này ! Augustin thân mến ơi ! mọi việc đều như ý, như ý, như ý! )

Nhưng kỳ diệu nhất là mỗi khi thò ngón tay vào đám hơi bốc ở nồi ra thì lập tức ngửi ngay thấy mùi tất cả các món ăn đang xào nấu trên tất cả các bếp trong kinh thành.

Nhất định là cái nồi ấy khác xa một bông hồng !

Công chúa cùng tất cả các cung nữ đi chơi qua nghe thấy tiếng nhạc, dừng lại nghe và mê tít, vì nàng cũng biết chơi bản nhạc ấy.

Ach ! du lieber Augustin !

Nhưng phải nói thật: nàng chỉ biết chơi có mỗi một câu ấy, và chỉ biết đánh đàn kiểu mổ cò thôi. Công chúa thốt lên :

- Chính là cái điệu khúc ta đã thuộc. Tên chăn lợn chẳng phải là người ngu đần đâu. Hãy vào hỏi hắn ta xem cái đàn của hắn ta đáng giá bao nhiêu tiền.

Một cung nữ chui vào chuồng lợn, trước khi vào chuồng không quên đi guốc, rồi hỏi :

- Cái nồi này anh lấy bao nhiêu tiền ?

- Tôi lấy mười cái hôn của công chúa.

Cung nữ kêu lên :

- Trời ơi là trời !

- Không lấy kém đâu.

Côn chúa hỏi:

- Hắn ta bảo sao ?

Cung nữ đáp:

- Con chẳng dám nhắc lại đâu. Khiếp lắm !

- Nói thầm cho ta hay vậy.

Người cung nữ tuân lệnh.

- Quân thô tục.

Công chúa kêu lên và bỏ đi. Nàng đi chưa được mười bước, nhạc lại bắt đầu thánh thót ngân vang:

Ach ! du lieber Augustin !
Alles ist vack, vack, vack !

- Chạy lại hỏi hắn ta có bằng lòng nhận mười cái hôn của các cung nữ không ?

Chàng chăn lợn trả lời:

- Không, xin cảm ơn ! Mười cái hôn của công chúa kia, không thì xin cứ để nồi đấy cho tôi.

Công chúa nói:

- Bướng bỉnh thật ! Thôi đành, các người đứng vây lấy ta, đừng để ai trông thấy.

Các cung nữ quây tròn lại và căng váy ra. Chàng chăn lợn được mười cái hôn, còn công chúa thì được cái nồi.

Mọi người đều vui sướng. Người ta đem cái nồi ra chơi suốt buổi tối. Không còn một bếp nào trong kinh thành giữ bí mật được nữa. Từ quan thị vệ cho đến các thợ giày, ai ăn gì họ đều biết cả. Các cung nữ thích quá, vừa vỗ tay vừa nhảy cẫng lên.

- Chúng mình biết hết: ai sẽ là người ăn xúp với hạnh nhân hay trứng tráng, ai là người sẽ ăn thịt quay và món bột nấu với sữa. Tuyệt thật !

- Đúng thế. Quan giám thị trong cung phụ hoạ.

Công chúa dặn thêm :

- Cốt nhất là không được bép xép gì vì ta là con gái hoàng đế, nghe chưa ?

Tất cả các cung nữ đồng thanh:

- Trời sẽ giữ mồm giữ miệng cho chúng con !

Chàng chăn lợn, tức là hoàng tử mà mọi người tưởng là một anh chăn lợn chính cống, không để một ngày giờ trôi qua mà không sáng chế ra một thứ gì mới.

Chàng gọt được một cái Cơrêxen rất xinh. (Crécelle : một thứ nhạc cụ bằng gỗ hình tròn, có các thanh gỗ to nhỏ, khi quay có một cái cần đập vào các thanh gỗ phát ra tiếng)

Khi quay, cái Cơrêxen ấy phát ra nào là điệu valse, nào điệu phi ngựa, điệu ponka, tóm lại, đủ các điệu nhảy trên đời.

Công chúa đi qua, phải thốt ra :

- Hay quá đi mất ! Ta chưa từng được nghe thứ nhạc mê ly ấy bao giờ. Vào hỏi hắn ta xem cái vật ấy đáng giá bao nhiêu; nhưng lần này thế nào thì thế, ta cũng không hôn hắn đâu đấy.

Người cung nữ vào hỏi rồi trở ra trả lời :

- Lần này anh ta đòi một trăm cái hôn.

Công chúa nói :

- Điên ! - và nàng bỏ đi.

Nhưng đi chưa được mười bước công chúa đã dừng lại phán :

- Phải khuyến khích nghệ thuật. Ta là con gái Hoàng đế. Vào bảo hắn là ta sẽ ban cho hắn mười cái hôn như hôm qua, còn bao nhiêu thì cung nữ của ta sẽ hôn cho đủ số.

Cung nữ giẫy nẩy:

- Hôn cái anh chàng thô lỗ ấy à ?

Công chúa nói:

- Thì đã làm sao ? Đến ta đây cũng còn hôn được huống chi các ngươi là bề tôi do ta nuôi cho ăn và trả tiền !

Người cung nữ lại quay vào chuồng lợn. Chàng chăn lợn khăng khăng :

- Một trăm cái hôn của công chúa, không thì ai giữ lấy của người ấy.

Công chúa truyền:

- Đứng quây lấy ta.

Các cung nữ đứng lại thành vòng tròn và chàng chăn lợn bắt đầu hôn.

Hoàng đế đang đứng trên bao lơn trông ra, tự hỏi :

- Có chuyện gì gần chuồng lợn thế kia ?

Ngài dụi mắt và đeo kính vào.

- À! Bọn cung nữ đùa nghịch. Phải ra xem bọn chúng đùa nghịch gì mới được! Hoàng đế đi giày băng túp vào, xuống thang gác rõ nhanh.

Xuống đến sân, ngài rón rén lại gần. Thật ra làm thế cũng bằng thừa vì các cung nữ còn đang mải đếm từng cái hôn để gã chăn lợn khỏi hôn quá số được hưởng.

Họ không biết có hoàng đế đi tới. Ngài kiễng chân nhìn vào và kêu lên :

- Thế này là thế nào ?

Rồi ngài rút giày băng rúp quật bọn cung nữ túi bụi.

Chàng chăn lợn đang hôn đến cái thứ tám mươi sáu thì hoàng đế cáu tiết hét:

- Cút ngay !

Thế là chàng chăn lợn và công chúa bị đuổi ra khỏi vương quốc.

Trời mưa như trút nước. Công chúa òa lên khóc.

Nàng than vãn:

- Khổ thân cho tôi ! Sao tôi chẳng lấy chàng hoàng tử đáng yêu có hay hơn không ?

Chàng chăn lợn chạy nấp sau một gốc cây, lau sạch phẩm nâu và phẩm đen trên mặt, cởi bỏ bộ quần áo xấu xí ra, trở lại chỗ công chúa trong bộ quần áo hoàng tử của mình và nói :

- Ta đến đây cốt để nói cho công chúa biết là ta rất khinh công chúa. Công chúa không muốn yêu một hoàng tử thật thà phúc hậu, công chúa không hiểu giá trị của bông hồng lẫn họa mi, nhưng vì một vật nhỏ mọn mà công chúa hôn một tên chăn lợn ! Cho đáng kiếp !

Chàng lập tức quay về nước mình, vào nhà và khóa chặt cửa lại. Công chúa đến trước cửa nhà chàng hát mãi:

Ach ! du lieber Augustin !
Alles ist vack, vack, vack !

Nhưng chẳng có hiệu quả.

Hoàng tử chẳng mở cửa.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:40  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Những người khôn



Grim





Một hôm, một bác nông dân rút ở xó nhà ra chiếc gậy gỗ trăn rồi bảo vợ:

- Này nhà ạ, tôi đi ba ngày nữa mới về đấy. Nếu lái bò có đến mua ba con bò nhà ta, thì nhà bán rẻ cũng được, nhưng phải lấy hai trăm đồng, kém thì đừng có bán nghe chưa.

Vợ đáp:

- Nhà cứ việc đi đi, cầu trời phù hộ. Tôi ở nhà sẽ làm đúng lời nhà dặn.

- Chà! Khi nhà còn bé đã có lần ngã đập đầu xuống đất, đến giờ vẫn còn bị ảnh hưởng. Nhưng tôi dặn nhà nhớ, nếu nhà làm gì vớ vẩn, tôi về sẽ đánh cho thâm tím mình mẩy bằng chiếc gậy tôi đang cầm trong tay đây này, đến một năm cũng vẫn còn vết lằn, tôi nói không ngoa đâu.

Nói rồi bác ta đi.

Sáng hôm sau, lái bò đến. Bác gái cũng không phải nói nhiều lời. Hắn xem bò xong, hỏi giá rồi nói:

- Tình giá ấy được thôi, thật là giá chỗ bà con. Để tôi mang bò đi ngay.

Hắn tháo dây buộc, lùa bò ra khỏi chuồng. Khi hắn dắt bò ra khỏi sân thì bác gái nắm lấy tay áo hắn bảo:

- Bác phải đưa tôi hai trăm đồng đã, không thì tôi không để cho đi đâu.

Lái bò đáp:

- Được, được thôi. Ấy tôi quên không mang theo hầu bao. Nhưng bác đừng lo. Bác cứ yên chí, thế nào tôi cũng trả sòng phẳng. Này nhé, tôi mang đi hai con bò thôi, còn con thứ ba tôi để lại làm tin.

Bác gái cho việc ấy là minh bạch, để cho tên lái mang bò đi và nghĩ bụng:

- Thầy nó thấy mình khôn ngoan thế chắc là mừng lắm đấy.

Đến ngày thứ ba, bác nông dân đúng hẹn về nhà, hỏi ngay xem bò đã bán chưa. Bác gái đáp:

- Dĩ nhiên là bán rồi, thầy nó ạ. Mà như thầy nó dặn, bán đúng hai trăm đồng. Bò nhà mình thì cũng chẳng đáng giá ấy đâu, nhưng bác lái thuận mua luôn, chẳng cò kè gì cả.

Bác trai hỏi:

- Thế tiền đâu?

- Tôi chưa cầm. Bác lái quên mang theo hầu bao nhưng bác ấy mang lại ngay đấy. Bác ấy có để vật làm tin rất chắc chắn.

Bác trai hỏi:

- Của tin gì thế?

- Bác ấy để lại đây một trong ba con bò làm tin, trả tiền xong mới dắt nốt đi. Tôi khôn lắm, thầy nó ạ! Tôi giữ lại con bé nhất vì nó ăn ít nhất.

Bác trai tức quá, giơ gậy lên định cho bác gái một trận đòn như bác đã bảo trước. Nhưng rồi bác lại hạ gậy xuống nói:

- Bu mày thật là ngu như bò, ngu nhất trần đời này. Nhưng tôi thương hại bu nó quá. Thôi để tôi đi ba ngày nữa xem có gặp ai ngu đần hơn bu mày không. Nếu gặp, thì sẽ tha cho bu mày. Nếu không gặp thì tôi nhất định cho bu mày một trận đòn nên thân.

Bác đi theo đường cái rồi ngồi trên một hòn đá, đợi xem sự việc ra sao. Bác thấy một chiếc xe đi tới. Trên xe chỉ có một người đàn bà đứng chứ không ngồi trên đống rơm ở ngay trên xe mà cũng không đi bộ dắt bò bên xe. Bác nghĩ bụng đây hẳn là người ngu đần mình đang tìm, liền nhảy xuống và chạy loăng quăng trước xe y như người mất trí. Người đàn bà bảo bác:

- Ơ bác kia! Tôi có quen biết gì bác đâu? Bác ở đâu đến đây?

Bác nông dân đáp:

- Tôi ở trên trời rơi xuống đấy. Không biết làm cách nào lên trời lại được. Bác có đưa tôi lên được không?

Người kia đáp:

- Không được đâu. Tôi có biết đường đâu. Nếu bác ở trên trời xuống thì bác làm ơn cho tôi hỏi thăm nhà tôi ra sao. Thầy nó đã chầu trời được ba năm nay. Chắc là bác có gặp thầy nó nhà tôi.

- Có, có tôi có gặp bác trai. Lẽ dĩ nhiên là mọi người không phải ai nấy đều ổn cả đâu. Bác trai chăn cừu cũng lôi thôi rắc rối lắm, nó nhảy lên núi, nó lạc vào bãi hoang, bác trai cứ phải luôn đi tìm để hợp đàn. Quần áo mắc vào bụi rậm rơi từng mảnh, phơi cả da thịt ra. Trên ấy không có tuyết, thánh Pêtrut không cho ai vào, như bà nghe chuyện cổ tích đã biết đấy.

Người đàn bà kêu lên:

- Chết chưa, có ai ngờ đâu nông nỗi ấy! Để tôi đi lấy bộ quần áo ngày chủ nhật còn treo trong tủ ở nhà, để thấy nó mặc cho lịch sự. Nhờ bác làm ơn mang giúp cho thầy nó nhé!

Bác nông dân đáp:

- Không được đâu. Không thể mang quần áo lên trời được đâu. Đến cổng trời là bị thu đấy.

- Này bác ạ, hôm qua tôi bán chỗ lúa tôi được khá tiền muốn gửi lên cho thầy cháu. Nếu bác giấu tiền hộ vào túi chắc chẳng ai biết đâu.

- Cũng được thôi! Để tôi giúp bác.

Bác kia nói:

- Thế bác ngồi đợi đây, tôi cho xe về nhà lấy tiền rồi trở lại ngay. Ấy tôi không ngồi trên đống rơm, mà đứng trên xe để cho bò kéo đỡ nặng đấy.

Bà ấy thúc bò đi. Bác nông dân nghĩ bụng:

- Bà này hẳn có máu dở người. Nếu bà ta về lấy tiền thật thì may cho mẹ đĩ nhà mình khỏi bị trận đòn.

Một lát sau, bà ta mang tiền chạy tới nhét vào túi bác. Trước khi đi, bà ta còn đa tạ lòng tốt của bác mãi.

Bà về nhà thì gặp con trai ở ngoài đồng về. Bà liền kể cho con gặp chuyện bất ngờ như thế nào và bảo:

- Mẹ mừng là gặp may gửi được cho thầy mày ít quà. Có ai ngờ được là ở trên trời mà cũng còn bị thiếu thốn!

Con ngạc nhiên quá bảo:

- Mẹ ạ, ít khi có người ở trên trời rơi xuống như thế. Để con đi ngay xem có gặp không. Để hỏi bác ta xem trên ấy ra sao, làm ăn thế nào.

Anh ta đóng yên ngựa vội vã ra đi. Anh thấy bác nông dân đang ngồi ở gốc cây liễu, định đếm tiền trong hầu bao. Anh gọi to hỏi:

- Bác có gặp người ở trên trời rơi xuống không?

Bác nông dân đáp:

- Có, bác ta lại đi về rồi, bác ta trèo lên đỉnh núi kia để đi cho gần. Anh chịu khó phi ngựa thì đuổi kịp đấy.

Anh thanh niên nói:

- Chà! Tôi làm suốt ngày, vất vả, lại phi ngựa đến đây thì mệt lử rồi. Bác biết người ấy, bác làm ơn cưỡi ngựa này đến nói khéo cho người ấy thuận lại đây hộ.

Bác nông dân nghĩ bụng gã này cũng lại tàng tàng. Bác bảo:

- Thôi thì để tôi giúp cậu vậy!

Bác trèo lên ngựa phóng nước đại. Gã thanh niên ngồi đợi đến đêm cũng không thấy bác nông dân trở về. Anh nghĩ bụng chắc là người kia vội vã về trời nên không muốn quay lại và bác nông dân đã đưa cả ngựa cho người ấy mang cho bố mình rồi. Anh quay về kể lại chuyện cho mẹ, nói là đã gửi ngựa cho bố để bố khỏi phải đi bộ. Mẹ bảo:

- Con làm thế là phải. Con có đôi chân còn vững, đi bộ cũng được.

Bác nông dân về đến nhà, nhốt ngựa vào chuồng cạnh con bò giữ làm tin. Bác bảo vợ:

- Bu mày ạ! Bu mày may lắm nhé! Tôi gặp hai người còn ngu đần hơn cả bu mày cơ. Lần này, tôi tha đánh bu mày, để dành dịp khác.

Rồi bác châm điếu hút thuốc, ngồi vào chiếc ghế bành tứ đại và bảo:

- Thật là món bở. Đổi hai con bò còm lấy một con ngựa béo, lại thêm một hầu bao đầy tiền. Nếu ngu đần mà lại như thế này thì mình cứ là trọng ngu đần mãi.

Bác nông dân nghĩ vậy, nhưng hẳn là các bạn còn thích những người đần độn hơn.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:41  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Sáu con thiên nga



Grim



Ngày xưa có một ông vua đi săn ở một khu rừng lớn, vì vua đuổi theo một con thú hăng quá nên quân hầu không ai theo kịp. Tối đến, vua đứng lặng nhìn quanh, thấy mình đã bị lạc đường, không tìm được lối ra. Bỗng vua thấy có một mụ già, đầu lắc lư đi tới: đó là một mụ phù thủy. Vua bảo mụ:

- Này cụ, cụ có thể làm ơn chỉ cho tôi lối ra khỏi rừng được không?

Mụ đáp:

- Tâu bệ hạ, được chứ. Cái đó già làm được, nhưng với một điều kiện mà nếu bệ hạ không chấp nhận thì bệ hạ không bao giờ ra được khỏi rừng này và sẽ chết đói ở đây.

Vua hỏi:

- Điều kiện gì hở cụ?

- Già có một đứa con gái đẹp nhất đời. Bệ hạ chưa từng thấy ai đẹp đến thế đâu, thật xứng đáng làm vợ vua. Nếu bệ hạ đồng ý lấy nó làm hoàng hậu thì già sẽ chỉ đường cho bệ hạ ra khỏi rừng.

Trong lúc hoảng sợ, vua bằng lòng ngay. Mụ già dẫn vua đến ngôi nhà nhỏ của mụ. Con gái mụ ngồi bên lửa. Cô đứng dậy ra đón vua ngay, như đã sẵn sàng chờ vua đến. Vua thấy cô tuyệt đẹp nhưng không thích, nhìn cô, vua cảm thấy rờn rợn. Sau khi vua đặt cô lên mình ngựa thì mụ chỉ đường cho vua. Vua về đến cung điện làm lễ cưới.

Nguyên vua đã lấy vợ một lần và hoàng hậu sinh được bảy con, sáu trai một gái, vua yêu quí vô cùng. Sợ người dì ghẻ đối với con mình không tốt mà còn có thể làm khổ chúng nữa vua đưa chúng đến ở một tòa lâu đài hiu quạnh giữa rừng sâu. Lâu đài rất kín, đường đi đến khó mà tìm được, chính vua cũng không tìm ra đường nếu không được một bà lão cho một cuộn chỉ có phép lạ. Khi vua ném cuộn chỉ về phía trước, nó sẽ tự gỡ ra và chỉ đường cho vua.

Nhà vua luôn luôn đi thăm các con yêu dấu, nên hoàng hậu để ý đến sự vắng mặt của vua. Mụ dì ghẻ tò mò muốn biết vua đi vào rừng một mình làm gì. Mụ bèn cho thị vệ của vua nhiều tiền, chúng nói lộ bí mật cho mụ biết và nói cả đến cuộn chỉ biết đưa đường. Mụ bứt rứt không yên tâm, mãi cho đến lúc mụ tìm ra được chỗ vua để cuộn chỉ. Mụ bèn may một số áo lót bằng lụa trắng và khâu bùa vào vì mụ học được ít phép của mẹ.

Một hôm, vua ruổi ngựa đi săn vắng, mụ mang áo đi theo cuộn chỉ dẫn đường vào rừng. Bọn
trẻ thấy từ xa có bóng người đến tưởng là cha yêu dấu, vội vui mừng chạy lại đón. Mụ bèn tung trùm lên mỗi đứa một cái áo, áo vừa đụng vào người thì chúng biến ra thiên nga bay vượt qua rừng biến mất. Mụ hớn hở về nhà, tưởng là đã trừ được lũ con chồng. Nhưng mụ không ngờ là còn cô con gái không chạy ra đón cha cùng các anh.

Một hôm, vua đến thăm các con thì chỉ thấy con gái thôi. Vua hỏi:

- Các anh con đâu?

Cô đáp:

- Trời ơi, cha yêu dấu! Các anh con đi mất rồi, bỏ lại mình con.

Rồi cô kể cho vua nghe cô đứng ở cửa sổ nhìn thấy những gì, các anh cô hóa thiên nga bay qua rừng thế nào, và đưa cho vua xem những lông chim cô nhặt được ở ngoài sân. Vua rất buồn bã nhưng không ngờ là hoàng hậu làm việc độc ác ấy. Vua sợ cô gái cũng bị mất nốt nên định mang cô đi cùng. Nhưng cô sợ dì ghẻ nên xin vua hãy để cô ở lại tòa lâu đài trong rừng đêm ấy nữa. Cô gái đáng thương nghĩ bụng:

- Mình không thể ở đây lâu được nữa, mình phải tìm các anh mới được.

Đêm đến, cô trốn vào rừng. Cô đi suốt đêm hôm ấy cả ngày hôm sau, mãi đến lúc mệt quá không đi được nữa. Lúc đó, cô thấy một chiếc lều hoang. Cô bước vào thì thấy một căn buồng có sáu chiếc giường nhỏ. Nhưng cô không dám nằm vào chiếc nào, mà chui xuống nằm ở gầm giường, định ngủ đêm đó trên nền đất rắn.

Nhưng tới lúc mặt trời sắp lặn cô nghe có tiếng lào xào và thấy sáu con thiên nga bay qua cửa sổ chui vào. Chúng ngồi xuống đất, thổi lẫn cho nhau, cho bay hết lông; bộ lông thiên nga trút ra như một chiếc áo lót. Cô gái nhận ra các anh mình, mừng lắm, chui ở gầm giường ra. Các anh trông thấy em cũng mừng rỡ chẳng kém. Nhưng vui chẳng được bao lâu, các anh bảo em:

- Em không ở đây được đâu. Đây là sào huyệt của bọn cướp, chúng về thấy em sẽ giết em mất.

Em hỏi:

- Thế các anh có cách nào che chở em không?

Các anh nói:

- Không, vì mỗi tối, các anh chỉ có thể trút bộ lông thiên nga, hiện nguyên hình người trong một khắc đồng hồ, sau đó lại phải biến thành thiên nga.

Em khóc hỏi:

- Thế không có cách nào giải thoát các anh à?

Các anh đáp:

- Không được đâu! Khó lắm. Trong sáu năm, em không được nói được cười. Trong thời gian ấy, em phải may cho các anh sáu chiếc áo lót nhỏ bằng hoa thúy cúc. Nếu em nói nửa lời là công toi hết.

Các anh vừa nói xong thì một khắc đồng hồ đã qua, các anh lại biến thành thiên nga bay qua cửa sổ mất. Cô gái nhất định giải thoát cho các anh, dù có phải hy sinh tính mạng. Cô rời bỏ chiếc lều hoang, vào giữa rừng, leo lên cây ngủ đêm. Sáng hôm sau, cô đi hái hoa thúy cúc và bắt đầu khâu áo. Cô chẳng nói năng được với ai mà cũng chẳng buồn hé miệng cười. Cô chỉ ngồi một chỗ chăm chú làm.

Một thời gian đã qua. Vua xứ ấy cùng thợ săn vào rừng tìm thú, đến cây cô ngồi. Họ gọi cô:

- Cô hãy xuống đây với chúng tôi, chúng tôi không hại gì cô đâu.

Cô chỉ lắc đầu. Họ hỏi dồn mãi, cô liền ném xuống cho họ chiếc dây chuyền đeo cổ bằng vàng, tưởng làm như thế cho họ yên đi. Nhưng họ vẫn không chịu thôi, cô liền vứt chiếc thắt lưng của cô xuống. Thấy vẫn chưa ổn cô vứt thêm nịt bít tất, rồi dần dần vứt tất cả các thứ mặc trên người có thể vứt được, đến nỗi cô chỉ còn chiếc áo lót. Những người thợ săn không vì thế mà chịu lùi. Họ trèo lên cây, bế cô xuống đưa đến trước mặt vua. Vua hỏi:

- Nàng là ai? Nàng ngồi trên cây làm gì?

Cô không đáp. Vua dùng đủ các thứ tiếng vua biết mà cô vẫn câm như hến. Nhưng cô đẹp quá khiến lòng vua rung động. Vua yêu cô tha thiết. Vua khoác áo ngực cho cô, đặt cô lên kiệu ngồi trước mình đưa về cung điện. Vua cho cô mặc quần áo sang trọng, cô đẹp lộng lẫy như một ngày nắng đẹp, nhưng cô vẫn không nói nửa lời. Vua đưa cô lại ngồi ở bàn ăn, cho ngồi bên mình. Dáng điệu nhu mì và e lệ của cô khiến vua rất hài lòng. Vua nói:

- Ta thiết tha muốn lấy cô này, ta không lấy một ai khác trong thiên hạ đâu.

Mấy hôm sau, vua lấy nàng. Vua có một bà mẹ ghẻ độc ác, không bằng lòng với đám cưới
này, và nói xấu hoàng hậu trẻ tuổi. Bà bảo:

- Không biết cái con này ở đâu ra mà nó không nói năng gì được. Nó không xứng đáng làm vợ vua.

Hơn một năm sau, khi hoàng hậu sinh con đầu lòng. Mụ bắt trộm đi và lừa khi nàng ngủ bôi máu vào mồm nàng. Rồi mụ tâu vua là nàng ăn thịt người. Vua không tin, không để ai làm hại
nàng. Lúc nào nàng cũng ngồi khâu áo lót, ngoài ra không để ý đến cái gì khác. Lần sau, nàng lại sinh một đứa con trai kháu khỉnh. Mẹ ghẻ quỉ quyệt lại lừa vua như lần trước. Vua vẫn nhất định không tin lời mụ. Vua bảo:

- Nàng trong sạch và tốt bụng, không thể làm việc ấy đâu. Nếu nàng nói được và có thể tự bênh vực được thì sẽ minh oan được. Nhưng đến lần thứ ba, mụ già lại ăn trộm đứa bé mới đẻ và lại tố cáo hoàng hậu. Nàng vẫn không nói nửa lời để minh oan. Vua không làm khác được phải đưa nàng ra tòa xử. Nàng bị kết tội chết thiêu.

Đã đến ngày hành hình, cũng là ngày cuối cùng của thời gian sáu năm không được nói, cười, ngày nàng sẽ giải thoát được các anh khỏi yêu thuật. Sáu chiếc áo lót đã khâu xong chỉ còn thiếu cánh tay áo chiếc cuối cùng. Khi nàng bị dẫn đến đống củi, ở dưới sắp châm lửa, nàng nhìn quanh thì thấy sáu con thiên nga bay trên không lại. Nàng cảm thấy mình sắp được cứu thoát, lòng mừng khôn xiết.

Thiên nga bay rào rào tới chỗ nàng, sà xuống thấp để nàng có thể ném áo lót lên tới được. Áo vừa đụng chim thì lông thiên nga rơi xuống liền, các anh nàng hiện lên hình người đứng trước nàng, vui vẻ, đẹp đẽ. Chỉ có người em cuối cùng là chiếc áo còn thiếu cánh tay trái vì vậy ở lưng còn có một cánh thiên nga. Anh em ôm nhau hôn trìu mến; hoàng hậu đến tìm vua, vua rất đỗi ngạc nhiên. Nàng nói:

- Tâu bệ hạ, giờ thiếp mới được phép nói và bộc lộ là thiếp đã bị oan.

Nàng kể lại âm mưu mụ già đã lấy trộm ba đứa con đem giấu đi. Vua tìm được con mừng rỡ lắm, còn mụ dì ghẻ cay nghiệt kia phải đền tội. Mụ bị trói trên đống lửa và bị thiêu ra tro. Vua và hoàng hậu cùng sáu anh hưởng hạnh phúc dài lâu.

(Dị bản)



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:43  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Hoàng Anh và gấu





Grim





Một ngày hè, gấu và sói đi dạo chơi trong rừng. Gấu nghe có tiếng chim hót véo von, liền hỏi bạn:

- Sói này, chim gì mà hót hay thế ?

Sói đáp:

- Vua loài chim đấy. Bọn mình có gặp thì phải cúi chào đấy nhé.

Nhưng đó chỉ là chim hoàng anh. Gấu nói:

- Nếu quả như vậy thì tôi muốn xem cung điện của hắn ra sao. Anh dẫn tôi đi nhé.

Sói đáp:

- Đâu có dễ thế! Anh phải đợi vua và hoàng hậu đi đã chứ!

Gấu và sói để ý chỗ gốc cây có tổ chim rồi đi. Nhưng gấu đứng ngồi không yên, muốn xem cung điện cho kỳ được, nên một lát sau lại lộn lại. Đúng lúc vua và hoàng hậu vừa bay đi khỏi, gấu ngó vào thấy năm sáu con chim nhỏ nằm trong. Gấu kêu lên:

- Cung điện nhà vua gì mà thế này? Nhà ở tồi tàn quá! Hạng chúng bay thì con vua cháu chúa quái gì! Chúng bay chẳng qua là bọn con nhà đê tiện.

Mấy chú hoàng anh nghe thấy thế giận lắm quát:

- Đừng có nói láo! Bố mẹ chúng tôi dòng dõi quí phái cả. Thằng gấu kia, chuyện này nhất định phải làm cho ra nhẽ mới được.

Gấu và sói sợ quá quay về chui vào hang. Các chú hoàng anh vẫn kêu la rầm rĩ. Khi bố mẹ chúng tha mồi về, chúng mách:

- Chúng con không động đến một cái chân ruồi nhỏ đâu. Chúng con can tâm chết đói nếu bố mẹ không làm cho ra nhẽ: chúng con có phải là con vua cháu chúa hay không? Thằng gấu nó đến đây sỉ nhục chúng con.

Vua cha nói:

- Các con cứ yên tâm, cha sẽ làm chuyện này cho ra nhẽ.

Vua cùng hoàng hậu liền bay đến hang gấu gọi:

- Lão gấu già cảu nhảu kia, tại sao ngươi dám sỉ nhục con ta? Thật là vô phúc cho ngươi, ta sẽ đấu với ngươi một trận sống mái cho rõ trắng đen.

Thế là hoàng anh khai chiến với gấu. Gấu cầu cứu tất cả các loài thú. Bò này, lừa này, hươu này, nai này... tất cả các loài vật bốn chân trên mặt đất. Hoàng anh thì đi gọi các loài bay trên trời: không phải chỉ có chim chóc lớn nhỏ mà thôi đâu, mà còn có cả loài ruồi, loài nhặng, loài ong nữa.

Sắp đến ngày đánh nhau, hoàng anh phái trinh sát đi dò xem ai là tướng chỉ huy quân địch. Nhặng là trinh sát tinh khôn nhất bay vào rừng tìm nơi quân địch tập hợp. Quân địch đang bày mưu tính kế ở một gốc cây. Nhặng ẩn mình sau một chiếc lá trên cây nghe thấy gấu gọi cáo bảo:

- Cáo này, mày khôn nhất các giống vật, mày làm tướng chỉ huy đi.

Cáo nói:

- Được, nhưng giờ tao lấy gì làm hiệu nào?

Không con nào nghĩ ra. Cáo liền bảo:

- Tao có một cái đuôi đẹp, vừa dài vừa rậm, rõ là chùm lông đỏ. Hễ tao giơ đuôi lên nghĩa là mọi việc đều ổn, chúng bay cứ việc tiến; hễ tao hạ đuôi xuống, thì chúng bay lo mà chạy thoát thân cho mau.

Nhặng nghe thấy thế bay về báo cho hoàng anh. Trời tang tảng sáng, loài vật bốn chân ầm ầm kéo ra trận, mặt đất rung chuyển như có sấm động. Hoàng anh và quân của mình xuất trận trên không trung kêu vo vo, bay rào rào, nghe đến kinh hồn. Hoàng anh phái ong bầu đến bám sát đuôi cáo, ra sức đốt. Cáo bị đốt lần đầu giật bắn mình, giơ một chân lên, nhưng vẫn cố nhịn giơ đuôi lên thẳng. Bị đốt lần thứ hai, cáo đành hạ đuôi xuống một tí. Đến lúc bị đốt lần thứ ba thì cáo chịu không nổi nữa, kêu lên, cụp đuôi vào hai chân. Thấy vậy, các con bốn chân đều cho là mọi việc hỏng bét rồi, vội bỏ chạy về hang. Thế là chim được trận. Vua và hoàng hậu liền bay về tổ gọi con bảo:

- Các con thích nhé, thôi cứ ăn uống thỏa thê đi, chúng ta thắng trận rồi.

Các chim Hoàng tử đáp:

- Nếu bản thân gấu không chịu đến xin lỗi và nhận chúng con là con nhà dòng dõi thì nhất định chúng con không chịu ăn đâu.

Hoàng anh bay đến hang gấu quát:

- Đồ gấu cảu nhảu, muốn sống thì đến xin lỗi con ta, nhận chúng là con nhà dòng dõi, nếu không thì mày thịt nát xương tan bây giờ.

Gấu sợ quá, lết đến tổ chim xin lỗi. Lúc ấy các chim hoàng anh nhỏ mới chịu thôi và ăn uống vui chơi cho đến khuya.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:44  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Hanxơ sắt





Grim





Xưa có một ông vua. Quanh cung điện của vua là một khu rừng lớn trong đó có đủ các loài dã thú. Một hôm, có một người thợ săn được vua phái vào rừng để bắn một con nai, nhưng không thấy anh ta trở về vua bảo:

- Có lẽ hắn gặp tai nạn rồi.

Hôm sau, vua sai hai tên thợ săn khác vào rừng để tìm người thứ nhất, nhưng rồi cũng chẳng thấy ai về. Ngày thứ ba, vua cho triệu tất cả các thợ săn trong xứ đến bảo:

- Các ngươi hãy đi sục khắp khu rừng tìm ra kỳ được ba người mới thôi.

Đoàn người đi rồi lại cũng không thấy ai về. Cả đến đàn chó săn mà họ dắt theo cũng biến đâu hết cả. Từ hôm đó chẳng ai dám vào rừng nữa. Khu rừng càng thêm âm thầm hiu quạnh. Họa hoằn mới thấy bóng một con chim ưng, hoặc một con diều hâu bay ngang qua. Cứ thế cho mãi đến mấy năm sau mới có một người thợ săn lạ mặt đến yết kiến vua, xin chu cấp và tình nguyện vào khu rừng nguy hiểm nọ. Nhưng vua không muốn nhận lời bèn phán:

- Trong đó chẳng an toàn đâu, ta chỉ ngại nhà ngươi sẽ còn phải gặp chuyện rủi ro hơn cả mấy tên trước nữa, khó mà về thoát được.

Người thợ săn đáp:

- Tâu bệ hạ, xin cứ cho tôi thử một phen. Tôi không sợ đâu.

Người thợ săn dắt chó vào rừng. Đi mới được một lát. Chó tìm thấy vết thú. Nó muốn lần theo nhưng chưa được mấy bước đã thấy một cái đầm rất sâu chắn trước mặt, không thể nào đi tiếp được nữa. Liền đó một cánh tay trần trụi từ dưới nước ngoi lên túm lấy nó kéo xuống.
Người thợ săn thấy thế quay về ngay. Anh ta lấy thêm ba người nữa, đem thùng theo định tát cạn cái đầm kia. Lúc đã nhìn được suốt xuống tận đáy đầm, họ thấy có một người rừng nằm dài dưới đó, mình hắn toàn bộ màu nâu như sắt gỉ, tóc phủ qua mắt xõa xuống đến tận đầu gối. Họ lấy thừng trói gô hắn lại rồi điệu về cung điện.

Nhân dân xôn xao kinh ngạc về người rừng. Vua cho nhốt hắn vào một cái lồng sắt đựng ở ngoài sân chầu và nghiêm cấm không ai được mở cửa lồng. Kẻ trái lệnh sẽ bị tử hình và hoàng hậu đích thân giữ chìa khóa. Từ hôm đó, mọi người lại có thể yên tâm vào rừng.

Vua có một Hoàng tử lên tám tuổi. Một hôm, Hoàng tử đương chơi bóng ngoài sân bỗng quả bóng vàng lăn vào trong cái lồng. Hoàng tử chạy theo đòi:

- Trả lại bóng cho ta đây.

Người rừng đáp:

- Hãy mở cửa cho ta rồi ta sẽ trả.

Hoàng tử nói:

- Không được, điều đó thì không được, cha ta đã có lệnh cấm.

Nói xong, Hoàng tử chạy đi. Nhưng hôm sau, Hoàng tử lại đến đòi quả bóng. Người rừng lại dỗ:

- Mở cửa cho ta.

Hoàng tử không chịu. Ngày thứ ba, giữa lúc vua đi săn vắng, Hoàng tử lại tới bảo:

- Cho dù ta có muốn cũng chẳng mở được, vì ta không có chìa khóa.

Người rừng đáp:

- Chìa khóa ở dưới gối mẹ mi ấy, vào đó mà lấy.

Hoàng tử còn nhỏ tuổi, muốn lấy lại quả bóng quá, không kịp suy nghĩ chạy vào lấy luôn chìa khóa đem ra. Mở mãi mới được cái cửa, hoàng tử lại bị kẹp một ngón tay. Cửa mở rồi, người rừng bước ra, trả cho hoàng tử quả bóng rồi đi thẳng. Chú bé hoảng sợ, kêu gọi ầm ĩ:

- Trời, người rừng ơi, đừng đi, ta sẽ bị đòn mất thôi.

Người rừng bèn quay lại, bế bổng Hoàng tử lên vai, rảo bước đi vào rừng.

Lúc vua về nhà, thấy cái lồng trống không, vội hỏi hoàng hậu xem sự thể thế nào. Hoàng hậu vẫn chưa biết chuyện mới đi tìm chìa khóa thì chìa khóa đã mất. Hoàng hậu vội lên tiếng gọi con, không thấy ai trả lời. Vua sai người ra ngoài thành tìm mà không thấy. Vua đoán biết là có chuyện gì rồi. Trong triều, không khí nặng nề buồn bã.

Lúc người rừng đã vào tới quãng rừng sâu rồi. Hắn đặt chú bé xuống đất mà bảo chú:

- Mi sẽ không được thấy lại bố mẹ nữa đâu. Tuy vậy ta sẽ giữ mi ở với ta, ta thương mi vì chính mi đã giải thoát cho ta. Mi cứ theo đúng lời ta dặn thì sẽ được đối đãi tử tế. Vàng ngọc ở đây không thiếu, ta có nhiều của cải hơn bất kỳ ai trên thế gian này.

Người rừng dọn cho chú bé một ổ rêu làm chỗ ngủ. Hôm sau, hắn dẫn chú bé đến một cái giếng và bảo:

- Này, cái giếng vàng này sáng và trong như pha lê ấy. Nhiệm vụ của mi là ngồi đây mà canh, không được để cho một thứ gì rơi xuống đó, bằng không, giếng sẽ mất thiêng. Cứ chiều chiều ta sẽ đến xem mi có làm đúng lời dặn không?

Chú bé ngồi bên cạnh giếng, chốc chốc lại thấy một con cá vàng hoặc một con rắn vàng
xuất hiện dưới đó. Chú cũng để ý giữ, không cho bất kỳ thứ gì rơi xuống giếng. Nhưng ngồi được hồi lâu, ngón tay bị kẹp đột nhiên đau dội lên, chú vô tình nhúng nó xuống nước. Chú vội rút lên thật nhanh, song ngón tay đã bị phủ toàn vàng mất rồi, chú ra sức lau mà không tài
nào sạch được. Chiều tối. Hanxơ sắt - tên người rừng, đến nhìn chú bé hỏi:

- Có chuyện gì xảy ra ở giếng thế?

Chú bé đáp:

- Không, không.

Chú cố giấu ngón tay ra sau lưng cho người rừng khỏi thấy. Nhưng người rừng đã bảo chú:

- Mi đã nhúng ngón tay xuống nước rồi. Lần này ta tha, song mi cứ liệu, không được để bất kỳ cái gì rơi xuống nước nữa nhé!

Hôm sau, mới mờ sáng, chú bé đã trở dậy ra ngồi cạnh giếng. Ngón tay lại đau, chú vuốt nó lên đầu cho dịu đi. Không may có một sợi tóc đứt rơi đúng xuống giếng. Chú vội nhặt lên nhưng đã muộn, sợi tóc đã chói một màu vàng. Hanxơ sắt đến, biết ngay là có chuyện.

- Mi lại để một sợi tóc rơi xuống giếng rồi. Phen này ta bỏ qua cho mi, nhưng nếu còn để xảy ra chuyện đến lần thứ ba, cái giếng kia mất thiêng đi, mi sẽ không còn được ở đây với ta nữa.

Ngày thứ ba, chú bé ngồi bên giếng, ngón tay vẫn đau lắm mà không dám động đậy. Nhưng rồi ngồi yên mãi cũng chán, chú mới cúi xuống soi bóng mình dưới lòng giếng. Cúi mãi, cúi mãi, chú cứ muốn soi cho thật rõ, bất ngờ cả mái tóc dài của chú từ hai vai xõa xuống nhúng ngay vào nước. Chú vội đứng thẳng lên thật nhanh, song muộn mất rồi, cả mớ tóc đã nhuốm vàng, rực rỡ như vầng hồng. Chú khiếp đảm quá, rút khăn tay buộc lên đầu cho người khác khỏi nhìn thấy. Lúc Hanxơ sắt đến, hắn đã biết hết chuyện xảy ra nên bảo chú:


- Cởi cái khăn ra.

Tức thì những sợi tóc vàng thì nhau rủ xuống, chú bé ra sức kêu xin nhưng cũng vô ích.

- Mi đã không vượt qua được cơn thử thách nên không thể ở lại đây được nữa đâu. Giờ mi hãy đi ở với thiên hạ thôi. Mi sẽ biết thế nào là cảnh khổ. Song vì mi không có ác tâm và ta cũng mến mi nên ta cho phép mi một điều. Lúc nào gặp khó khăn, mi cứ vào rừng gọi: “Hanxơ sắt", ta sẽ tới cứu mi. Quyền lực của ta rất lớn, lớn hơn mi tưởng nhiều: vàng, bạc ta đều có thừa.

Hoàng tử từ biệt khu rừng đó, cứ chiếu thẳng đường mà đi, đến một thành phố lớn. Hoàng tử định tìm việc làm nhưng không có, vả chăng bản thân cũng chưa từng học nghề gì để có thể kiếm ăn. Sau cùng, hoàng tử đến thẳng cung vua hỏi xem có ai muốn mướn chàng hay không. Triều thần không biết dùng chàng vào việc gì nhưng vì mọi người đều mến chàng nên giữ chàng lại. Chàng được giao việc phụ bếp, ngày ngày khuân củi, xách nước, quét tro. Một hôm, vì không tìm được ai khác, người đầu bếp sai chàng bưng thức ăn lên dâng vua. Chàng không muốn để lộ mớ tóc vàng nên cứ đội nguyên cả mũ mà vào hầu. Vua chưa từng gặp chuyện vô lễ như thế bao giờ, quở ngay:

- Mi mang thức ăn vào dâng vua thì phải bỏ mũ ra.

Chàng đáp:

- Tâu hoàng thượng, tiếc rằng thần không thể làm thế được, thần bị bệnh chốc đầu.

Vua bèn cho gọi ngay người đầu bếp tới, quở hắn sao dám mướn một kẻ như thế giúp việc. Vua hạ lệnh phải đuổi chàng đi ngay tức khắc. Người đầu bếp thương chàng, không nỡ đuổi, cho đổi việc với gã coi vườn. Từ đó, ngày ngày Hoàng tử trồng cây, tưới cây, xới đất, đào đất
ở ngoài vườn chẳng quản gió mưa.

Trời đã sang hè, một hôm đương lúc mải làm, oi bức quá, chàng bỏ mũ cho mát. Ánh nắng rọi vào mớ tóc sáng rực, tia vàng phản chiếu lọt vào đến tận phòng riêng của công chúa. Nàng nhỏm dậy, ra xem có chuyện gì lạ. Tức thì nàng thấy chàng trai, liền gọi lại:

- Này chàng kia, hãy mang lại đây cho ta một bó hoa.

Hoàng tử vội vã đội ngay mũ lên đầu, bó một bó hoa đồng mang lại. Chàng đương lên thang thì gặp người coi vườn bảo:

- Sao dâng hoa lên công chúa lại dám lấy rặt những giống hoa dại này? Xuống lấy bó khác ngay đi, chọn những giống hoa đẹp nhất và hiếm nhất ấy.

Chàng đáp:

- Không đâu, chính hoa dại lại thơm hơn, chắc chắn công chúa sẽ thích hơn.

Lúc chàng bước vào phòng, công chúa bảo chàng:

- Bỏ mũ xuống đi, đứng trước mặt ta mà đội mũ là không được.

Chàng lại đáp:

- Bẩm, thần không dám, vì thần bị chốc đầu.

Nhưng công chúa giơ tay nhấc luôn cái mũ khỏi đầu chàng. Tức thì mái tóc vàng kia rủ xuống đến tận vai chàng, nom rất đẹp mắt. Chàng định bỏ chạy, công chúa kéo tay chàng lại, cho chàng một nắm tiền vàng. Chàng cầm tiền đi ra. Nhưng vì chàng chẳng thiết vàng nên đem lại cho người coi vườn, và bảo:

- Tôi gửi tặng các cháu nhỏ đây, để chúng làm đồ chơi.

Hôm sau, công chúa lại sai chàng đi hái một bó hoa đồng. Chàng cầm bó hoa vừa bước qua cửa phòng, công chúa đã vội giật cái mũ định lấy. Chàng nắm cả hai tay giữ chặt mũ lại. Công chúa lại cho chàng một nắm tiền vàng và lần này chàng vẫn không muốn giữ tiền, đem cho người coi vườn mang về cho con chơi.

Ngày thứ ba cũng như hai ngày trước. Công chúa vẫn không lấy được mũ. Chàng cũng không muốn lấy vàng của công chúa. Ít lâu sau, xứ có giặc. Vua cho gọi trăm họ lại. Chính vua cũng
chưa biết liệu rồi có chống cự nổi hay không. Thế giặc mạnh lắm, chúng có một đạo quân rất lớn. Chàng coi vườn tâu vua:

- Thần cũng đã trưởng thành, nên muốn được đi tòng chinh, xin hãy ban cho thần một con ngựa.

Những người khác thấy thế đều cười rộ lên mà rằng:

- Hãy chịu khó đợi cho bọn ta kéo đi hết đã rồi hãy vào tàu ngựa mà chọn, bọn ta sẽ để lại cho một con.

Khi mọi người đã kéo đi hết cả rồi, chàng vào dắt ngựa ra thì thấy đó là một con ngựa què, khập khiễng bước cao bước thấp. Tuy vậy, chàng cũng vẫn lên ngựa, phóng vào rừng sâu. Đến bên cạnh rừng rồi, chàng cất tiếng gọi ba lần: "Hanxơ sắt!". Tiếng gọi đập vào rừng cây nghe vang dội. Tức thì người rừng hiện ra hỏi:

- Mi muốn gì?

- Ta muốn có một con ngựa chiến thật khỏe để đi đánh giặc.

- Được, mi sẽ có ngựa và còn nhiều hơn thế nữa.

Người rừng quay trở vào. Chỉ một lát sau, đã thấy có người coi ngựa dắt một con ngựa chiến từ trong rừng đi ra. Lỗ mũi con vật thở phì phì tưởng chừng rất khó điều khiển được nó. Sau con ngựa là cả một đám quân lính mũ sắt giáp sắt, lưỡi kiếm sáng ngời dưới ánh nắng.

Chàng trai trao con ngựa què lại cho người lính coi ngựa, nhảy lên con chiến mã rồi vượt lên cả đoàn quân. Lúc chàng tiến tới gần chiến trường thì bên nhà vua đã bị chết nhiều người và đang sắp phải rút lui. Chàng liền thúc đoàn quân đầy đủ áo giáp và mũ trụ, như một cơn lốc đánh thốc vào giữa quân giặc, đập tan hết thảy mọi sức kháng cự. Giặc định rút chạy nhưng không kịp, chàng trai đã tiến sát sau lưng chúng rồi và chàng cứ thúc quân đánh, đánh mãi kỳ cho đến lúc không còn một tên giặc nào sống sót. Nhưng sau đó chàng chẳng quay về chỗ vua mà lại dẫn quân theo đường tắt trở lại khu rừng cũ, gọi Hanxơ sắt. Người rừng hỏi:

- Mi muốn gì?

- Nhận lại ngựa của mi đi, trả lại cho ta con ngựa què.

Mọi việc xảy ra sau đó như ý muốn của chàng. Chàng cưỡi con ngựa què trở về. Lúc vua về đến cung điện, công chúa ra mừng thắng trận. Vua nói:

- Không phải do ta đánh thắng trận, đó là công của một người kỵ sĩ lạ mặt đã đem quân đến giúp ta.

Công chúa hỏi người kỵ sĩ đó là ai, nhưng chính vua cũng không biết, nên vua chỉ nói:

- Người ấy còn mải đuổi theo quân giặc, nên ta cũng chưa được gặp lại.

Công chúa bèn hỏi thăm người coi vườn về tin tức chàng trai nọ. Bác ta cười mà thưa rằng:

- Anh ta cưỡi một con ngựa què vừa về đến nhà xong.

Mọi người đều giễu cợt và bảo:

- Anh chàng tập tễnh về kia rồi.

Họ còn hỏi mỉa gã:

- Này, suốt thời gian vừa rồi, cậu rúc vào ngủ ở xó nào đấy?

Nhưng gã chỉ ôn tồn đáp: "Ta đã làm hết sức mình, không có ta có lẽ đất nước đã nguy rồi", khiến mọi người cười ầm lên. Đức vua phán bảo con gái:

- Ta định báo là sẽ mở hội lớn trong ba ngày liền. Nhân dịp ấy con sẽ ném một quả táo bằng vàng, biết đâu chàng kỵ sĩ lạ mặt kia sẽ đến.

Sau khi biết tin, chàng trai vội vào rừng gọi Hanxơ sắt. Gã hỏi:

- Mi muốn gì?

- Ta ước mong sẽ bắt được quả táo vàng của công chúa.

Hanxơ sắt đáp:

- Được, chắc mi sẽ toại nguyện, nhưng mi phải nhớ mặc một bộ giáp đỏ và cưỡi một con ngựa hồng thật oai phong.

Đến ngày hội, chàng trai cưỡi ngựa tới, đi lẫn vào trong đám kỵ sĩ mà không ai nhận ra được chàng, công chúa bước ra nhằm phía các kỵ sĩ mà ném quả táo vàng. Chàng bắt ngay được rồi thúc ngựa phóng luôn đi mất. Ngày thứ hai, Hanxơ sắt cho chàng một bộ áo giáp bạc trắng với một con ngựa bạch. Chàng bắt được quả táo và lại thúc ngựa phóng đi mất. Đức vua giận lắm phán:

- Không thể được, hắn phải ra chầu trước mặt ta để ta hỏi tên họ.

Vua ra lệnh:

- Kỵ sĩ nào bắt được quả táo mà bỏ chạy sẽ bị đuổi theo, nếu không tự ý quay lại sẽ bị đâm chết.

Đến ngày thứ ba, chàng trai được Hanxơ sắt cấp cho một bộ áo giáp đen với một con ngựa ô. Chàng lại bắt được quả táo. Lúc chàng bỏ chạy, đám quân sĩ của nhà vua hò nhau đuổi theo. Có một người đuổi rất sát, liền chém một nhát, mũi kiếm lướt ngang chân chàng khiến chàng bị thương. Chàng chạy thoát nhưng vì con ngựa phải nhảy dữ quá, chiếc mũ trụ của chàng bị tuột khỏi đầu rơi mất, mọi người đều trông thấy mái tóc vàng rực. Họ quay ngựa về nói lại cho vua biết. Hôm sau, công chúa hỏi thăm người coi vườn về chàng trai.

- Gã ta đang làm ở ngoài vườn. Thế mà gã ta cũng đi dự hội đấy, mãi tối qua mới về. Gã có cho các cháu nhà tôi xem ba quả táo vàng mà gã bắt được.

Vua cho đòi chàng. Chàng vào hầu, đầu vẫn đội mũ. Nhưng công chúa đã bước tới bỏ chiếc mũ xuống. Tức thì mái tóc vàng rủ xuống đến tận vai, đẹp quá, mọi người đều phải kinh ngạc. Vua hỏi:

- Có phải chính ngươi là người kỵ sĩ đến đám hội mỗi ngày trang phục một màu và đã bắt được ba quả táo vàng đó không?

Chàng đáp:

- Dạ thưa chính thần đó ạ, và đây là ba quả táo.

Chàng móc túi lấy ba quả táo dâng lên vua:

- Nếu như hoàng thượng còn đòi thần phải có vật chứng gì khác nữa thì xin hãy xem vết thương đây. Thần đã bị thương trong lúc bị đám quân sĩ đuổi. Nhưng thần cũng chính là người kỵ sĩ đã giúp hoàng thượng chiến thắng quân giăc bữa trước đó.

Vua phán:

- Ta thấy rồi, ta chịu ơn nhà ngươi, ta có thể làm gì để ngươi vui lòng.

Chàng đáp:

- Tâu hoàng thượng, thần chỉ xin được cùng công chúa kết duyên.

Công chúa cười mà rằng:

- Chàng thật không biết úp mở chút nào.

Nàng tiến lại ôm hôn chàng.

Hôm cử hành hôn lễ, cả cha mẹ chàng cũng đến, hai người rất vui mừng vì họ đã mất hy vọng gặp lại con từ lâu lắm rồi. Vừa lúc mọi người ngồi vào bàn tiệc xong, bỗng thấy ngừng tiếng nhạc, cửa lớn mở ra, một vị hoàng đế oai phong lẫm liệt bước vào, theo sau
không biết bao nhiêu là người hầu. Vị hoàng đế ấy bước thẳng đến chỗ chàng trai, ôm chàng bảo:

- Ta chính là Hanxơ sắt đấy. Ta đã bị phù phép biến thành một người rừng nhưng con đã giải thoát cho ta. Từ nay mọi thứ của cải mà ta có đều thuộc về con.

Câu chuyện giúp các em hiểu về tình nghĩa của con người đối với nhau. Chính sự giúp đỡ nhau trong lúc khó khăn đã giải thoát được cả bùa mê và phù phép.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:45  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Chọn vợ


Grim






Một chàng chăn chiên muốn hỏi một trong ba chị em nhà kia làm vợ. Ba cô đều xinh, anh chàng phân vân mãi, không biết nên chọn cô nào. Chàng liền hỏi ý kiến mẹ. Bà bảo:

- Con cứ mời cả ba cô đến ăn. Con đem đặt trước mỗi cô một miếng phó mát và để ý xem các cô cắt phó mát thế nào.

Chàng nghe lời mẹ.

Chàng thấy cô cả ăn phó mát cả cùi. Cô hai cắt cùi vội quá, để sót nhiều ruột mà cứ thế vứt đi. Cô út gọt cùi cẩn thận, không quá dày cũng không quá mỏng. Chàng chăn chiên kể lại cho mẹ nghe. Mẹ bảo:

- Con nên lấy cô út.

Chàng nghe lời, quả nhiên sống với vợ rất là sung sướng.

Câu chuyện chỉ đơn giản kể về một chàng trai được bà mẹ mách cho một diệu kế để chàng có thể chọn được một người vợ tử tế. Nhưng đã nói lên được sự khôn khéo và tế nhị của bà mẹ, đồng thời ca ngợi tính chăm chỉ, cẩn thận của người con gái.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:46  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Hênxen và Grêten



Grim




Ngày xưa có hai vợ chồng một bác tiều phu nghèo khó, sống ở ven một khu rừng lớn. Gia đình có hai con. Con trai tên là Hênxen, con gái tên là Grêten. Nhà không đủ ăn. Một năm, trời làm đói kém, miếng bánh hàng ngày cũng chẳng có. Tối hôm ấy, chồng nằm trằn trọc mãi, thở dài bảo vợ:

- Chả biết rồi sao đây? Lương thực cạn rồi, lấy gì nuôi con?

Đói khổ khiến người mẹ đâm ra nhẫn tâm. Hết đường xoay xở, vợ bảo chồng:

- Thầy nó ạ, biết sao đây! Ngày mai, sớm tinh mơ, tôi với nhà đưa chúng vào rừng rậm, đốt lửa lên, cho mỗi đứa một mẩu bánh rồi bỏ chúng đấy mà đi làm. Chúng không biết đường mà về, thế là rảnh.

Chồng đáp:

- Nhà nó ạ, tôi chịu không làm thế được đâu. Nỡ nào đem bỏ con vào rừng cho thú đói ăn thịt!

- Thầy nó thật là điên. Không làm thế thì chết đói cả bốn mạng, chỉ còn việc bào gỗ đóng săng mà thôi.

Người vợ lèo nhèo mãi, kỳ đến lúc chồng phải làm theo ý mình.

Chồng nói:

- Nhưng tôi vẫn thương xót chúng nó lắm!

Hai đứa trẻ đói quá không ngủ được, nghe được hết. Grêten khóc sướt mướt, bảo Hênxen:

- Anh em mình chết đến nơi rồi.

Hênxen đáp:

- Em đừng lo buồn, anh sẽ có cách thoát chết.

Chờ lúc bố mẹ ngủ rồi, nó dậy mặc áo, mở cửa, lén ra ngoài. Trăng sáng. Sỏi trắng ở trước nhà lóng lánh như bạc. Hênxen nhặt sỏi bỏ đầy túi áo, rồi về nhà bảo Grêten:

- Em ơi, cứ yên trí mà ngủ đi.

Rồi nó lại đi ngủ.

Tang tảng sáng, mặt trời chưa mọc thì mẹ đã đến đánh thức hai con:

- Đồ lười! Dậy đi, còn phải vào rừng lấy củi chứ!

Rồi mẹ đưa cho mỗi con một mẩu bánh dặn:

- Chúng mày cầm lấy mà ăn trưa. Chớ có ăn nghiến ngấu
trước, không còn nữa mà cho đâu.

Grêten bỏ bánh vào túi áo và Hênxen đã bỏ đá đầy túi rồi. Cả nhà cùng nhau đi vào rừng.

Đi được một lát, Hênxen chốc chốc lại dừng lại ngoảnh về mé nhà. Bố thấy vậy bảo:

- Hênxen, sao mày cứ lùi lại nhìn gì mãi thế? Liệu đấy, đừng có dềnh dàng.

Hênxen đáp:

- Con nhìn con mèo trắng của nhà ngồi trên mái từ biệt con đấy.

Mẹ nói:

- Đồ ngốc! Không phải con mèo đâu, đấy là ống khói phản chiếu ánh mặt trời đấy.

Hênxen lùi lại không phải để nhìn mèo, mà cốt để rắc sỏi trắng ra đường.

Khi đến giữa rừng, bố nói:

- Chúng mày hãy đi nhặt củi, còn bố đốt lửa để chúng mày khỏi rét.

Hênxen và Grêten đi nhặt củi khô xếp thành đống. Khi ngọn lửa đã cao, củi cháy nỏ, mẹ nói:

- Thôi bây giờ chúng mày nằm gần lửa mà nghỉ. Tao và bố đi đẵn củi, xong sẽ quay về đón.

Hai đứa trẻ ngồi bên lửa. Đến trưa, chúng lấy bánh ra ăn. Nghe thấy tiếng bổ vào cây, chúng tưởng bố chúng ở gần đấy. Nhưng không phải tiếng rìu của bố, mà đó chỉ là tiếng cành cây bị gió đập vào cây khô. Chúng ăn xong, mắt díp lại vì mệt, liền ngủ một giấc say. Khi chúng thức dậy thì trời đã tối như mực. Grêten khóc nói:

- Bây giờ làm thế nào mà ra khỏi rừng được?

Hênxen dỗ em:

- Em cứ đợi một lát, chờ trăng lên, chúng mình sẽ tìm được lối về nhà.

Khi trăng mọc, Hênxen cầm tay em theo vết sỏi lóng lánh như tiền mới mà lần về nhà. Chúng gõ cửa. Mẹ mở, thấy Hênxen và Grêten liền nói:

- Đồ khốn kiếp, sao chúng mày ngủ kỹ ở trong rừng thế? Tao cứ tưởng chúng mày không muốn về nữa.

Bố thấy con về thì mừng lắm vì trong thâm tâm bố không muốn bỏ con. Sau đó ít lâu, trời lại làm đói kém khắp nơi. Một đêm hai anh em nghe thấy mẹ nằm trên giường nói với bố:

- Mọi thứ lại hết sạch rồi. Chỉ còn có nửa cái bánh ăn nốt là hết nhẵn. Phải tống chúng nó đi. Lần này ta đem bỏ chúng vào rừng sâu hơn trước để chúng không tìm được lối về. Bằng không thì không còn cách nào thoát.

Người chồng không đành lòng nghĩ bụng:

- Thà chia nhau với con ăn miếng bánh cuối cùng còn hơn.

Vợ không nghe, chửi chồng thậm tệ, cho là đã chót thì phải trét, lần trước đã theo ý mụ thì lần này cũng phải theo. Hai đứa trẻ chưa ngủ, nghe hết những chuyện bố mẹ bàn nhau. Khi thấy bố mẹ đã ngủ rồi, Hênxen dậy định ra ngoài nhặt sỏi như lần trước. Nhưng mẹ nó đã khóa cửa mất rồi, nó không ra được. Nó dỗ em gái:

- Em ạ, đừng khóc nữa, em cứ ngủ yên đi, anh sẽ có cách.

Sáng sớm tinh mơ, mẹ kéo cổ chúng dậy, cho mỗi đứa một mẩu bánh bé hơn lần trước. Dọc đường đi đến rừng, Hênxen cho tay vào túi bẻ vụn bánh mì ra và chốc chốc lại dừng lại rắc bánh xuống đất.

Bố hỏi Hênxen:

- Sao mày cứ hay dừng chân ngoảnh lại thế? Đi đi.

Hênxen đáp:

- Con nhìn con chim bồ câu của con nó đậu trên mái nhà để chào con kia kìa.

Mụ đàn bà nói:

- Đồ ngốc, không phải là chim bồ câu đâu mà là cái ống khói có mặt trời chiếu vào đấy.

Dù sao, dọc đường, Hênxen cũng rắc được hết bánh. Mụ đàn bà dẫn hai con vào tít chỗ rừng sâu mà từ thủa cha sinh mẹ đẻ mụ chưa tới bao giờ. Sau khi đốt lửa cháy to lên, mụ nói:

- Chúng mày ngồi đó. Lúc nào mệt thì ngủ đi một tí. Tao với bố mày đi đẵn gỗ, chiều tối xong sẽ quay lại đón chúng mày.

Đến trưa Grêten chia bánh cho anh vì bánh của anh đã rắc ở dọc đường rồi. Ăn xong, chúng ngủ. Tối đến, chẳng ai đến đón hai đứa bé đáng thương cả. Đêm tối như mực, hai đứa thức giấc, Hênxen dỗ em gái:

- Em ạ, chờ cho trăng lên, trông rõ bánh anh đã rắc, thì ta lại tìm thấy đường về.

Trăng vừa mọc lên thì hai đứa đứng dậy đi, nhưng chẳng thấy tí bánh nào vì hàng ngàn con chim trong rừng đã ăn mất cả rồi.

Hênxen bảo em:

- Thế nào rồi chúng ta cũng sẽ tìm được đường. Nhưng chúng không tìm ra đường. Chúng đi suốt cả đêm, suốt cả ngày hôm sau, mà không ra được khỏi rừng. Hai anh em bụng đói như cào mà chỉ nhặt được ít quả dại ở dưới đất. Chúng mệt quá, bước không nổi, nằm lăn ra ngủ dưới gốc cây. Chúng xa nhà đã ba ngày rồi.

Chúng lại đi, đâm sâu mãi vào rừng, và nếu không gặp ai cứu giúp thì đến chết đói, chết mệt thôi. Giữa trưa, chúng thấy một con chim đẹp, trắng như tuyết đậu trên cành hót hay lắm. Chúng liền dừng lại để nghe. Chim hót xong xòe cánh bay trước mặt chúng. Chúng theo chim đến tận một túp nhà con; chim đến đậu trên mái nhà ấy. Chúng lại gần thấy nhà xây bằng bánh mì, lợp bằng bánh ngọt, cửa sổ bằng đường trắng tinh. Hênxen nói:

- Thôi ổn rồi. Chúng ta được bữa ăn ngon đấy. Anh ăn một góc mái nhà, còn em ăn một mảnh cửa sổ, ngọt đấy.

Hênxen giơ tay bẻ một mảnh mái nhà để nếm thử và Grêten đứng bên cửa kính nhấm nháp một mảnh. Bỗng trong nhà có tiếng người nhẹ nhàng vọng ra:

- Ai gặm nhà ta đấy?

Hai đứa trẻ đáp:

- Gió đấy! Gió đấy! Con trời đấy!

Rồi hai đứa cứ việc ăn, không e ngại gì cả. Hênxen thích ăn mái nhà, bẻ một miếng tướng, và Grêten cũng gỡ lấy cả một khung kính tròn xuống. Bỗng cửa mở, một bà lão bé nhỏ chống nạng rón rén bước ra. Hai anh em sợ rụng rời, đánh rời hết cả các thứ cầm trong tay. Bà
lão lắc lư đầu, nói:

- Các cháu yêu dấu, ai đưa các cháu đến đây? Các cháu đừng sợ, cứ vào. Ở đây với bà, bà không làm gì đâu.

Bà lão dắt hai đứa vào, cho ăn ngon: sữa, bánh tráng đường, táo và hạnh đào. Rồi bà sửa soạn hai cái giường nhỏ xinh đẹp trắng tinh cho hai đứa trẻ ngủ. Hai đứa bé ngỡ là ở trên thiên đàng. Nhưng mụ già chỉ giả bộ tử tế ngoài mặt đó thôi. Đó là một mụ phù thủy gian ác rình bắt trẻ con nên làm nhà bằng bánh kẹo để nhử chúng. Khi thấy hai đứa bé vừa tới, mụ đã cười nham hiểm mà nói đùa:

- Chúng mày vào tay bà rồi, có bay lên trời cũng chẳng thoát được tay bà.

Sáng sớm, mụ dậy trước hai đứa, thấy chúng ngủ thật đáng yêu, má hồng phinh phính, mụ lẩm bẩm:

- Thật là món ngon.

Mụ đưa đôi tay khô héo ra nắm lấy Hênxen đem nhốt vào một cái cũi nhỏ, đóng cửa chấn song lại. Thằng bé kêu gào mãi mụ cũng mặc kệ. Rồi mụ đánh thức Grêten dậy bảo:

- Đồ con gái lười chảy thây, đi dậy lấy nước làm một bữa ngon cho anh mày. Nó ở trong cũi kia, tao muốn nó chóng béo. Khi nào nó thực béo, tao sẽ ăn thịt.

Grêten khóc thảm thiết, nhưng nào có ích gì, vì mụ phù thủy sai gì phải làm nấy. Hênxen được ăn thức ăn nấu nướng ngon lành còn Grêten phải ăn thừa. Sáng nào mụ già cũng lê đến bên cũi bảo Hênxen:

- Giơ ngón tay tao xem đã béo chưa.

Hênxen chỉ đưa cho mụ xem một cái xương nhỏ. Mắt kém, mụ tưởng đó là ngón tay thật, lấy làm lạ sao không thấy béo. Được một tháng vẫn không thấy Hênxen béo lên chút nào mụ đâm ra sốt ruột, không muốn chờ nữa. Mụ gọi Grêten:

- Con Grêtên đâu? Nhanh lên, đem nước lại đây, thằng Hênxen dù béo hay gầy, ngày mai tao cũng cứ làm thịt đem nấu.

Khốn nạn con bé vừa xách nước vừa khóc, nước mắt dòng dòng hai má. Nó kêu la:

- Lạy trời phù hộ cho chúng con. Thà để thú dữ ăn thịt trong rừng thì hai anh em cũng được cùng nhau chết.

Mụ già bảo:

- Thôi đừng kêu khóc nữa mà vô ích.

Mới bảnh mắt, Grêten đã phải đặt nồi, lấy nước và dóm bếp. Mụ già bảo:

- Hãy nướng bánh trước đã. Tao đã dóm lò và nhào bột rồi.

Mụ đẩy Grêten đáng thương tới bên lò. Ngọn lửa trong lò đã bắt đầu bốc lên. Mụ già bảo:

- Mày bò vào lò xem đủ nóng chưa, để cho bánh vào nướng.

Mụ định khi Grêten vào lò rồi thì đóng nắp lại, quay ăn một thể. Nhưng Grêten biết ý nói:

- Cháu không biết làm thế nào mà vào được.

Mụ già nói:

- Đồ ngu như bò, lò có cửa khá rộng cơ mà. Trông đây này, tao vào cũng còn lọt nữa là mày.

Mụ lại gần lò và thò đầu vào. Grêten liền đẩy mạnh mụ vào, đóng cửa sắt lại, rồi cài then ở ngoài. Mụ già rú lên khủng khiếp nhưng Grêten đã bỏ chạy để mặc mụ chết thiêu. Em chạy thẳng đến cũi vừa mở cửa cho anh vừa reo:

- Anh ơi, anh em ta thoát rồi, con mụ phù thủy đã chết rồi.

Cửa vừa mở thì Hênxen nhảy ra như con chim trong lồng được thả. Hai anh em vui mừng, ôm nhau hôn. Bây giờ chúng không còn sợ gì nữa, chúng đi xem nhà mụ già thì thấy ở xó nào cũng có những hòm đầy ngọc. Hênxen vừa ních đầy túi vừa nói:

- Của này quí hơn sỏi.

Còn Grêten nói:

- Em cũng phải lấy về nhà mới được.

Lấy đầy túi rồi, em nói:

- Bây giờ hai anh em ta đi ra khỏi khu rừng của mụ phù thủy đi.

Đi được vài giờ, chúng đến bên một cái đầm lớn. Hênxen nói:

- Anh không thấy có cầu, qua sao được?

Grêten bảo:

- Một chiếc thuyền nhỏ cũng chẳng có. Nhưng kia có vịt trắng đang bơi, để em nhờ nó giúp.

Rồi em bảo vịt rằng:

- Vịt ơi vịt, Grêten và Hênxen đây. Kè chẳng có, cầu cũng không. Hãy cõng anh em tôi qua với.

Vịt đến. Hênxen cưỡi lên lưng vịt và bảo em lên ngồi cạnh
mình. Em đáp:

- Thôi anh ạ, ngồi thế nặng quá. Để vịt cõng từng người một.

Vịt tốt bụng cõng làm hai chuyến. Đến bờ bên kia, hai anh em nhận dần ra đường lối trong rừng quen thuộc, và nhìn thấy nhà ở đằng xa. Chúng liền chạy ba chân bốn cẳng, nhảy bổ vào nhà, ôm ghì lấy cổ bố mẹ. Từ ngày bỏ con trong rừng, bố mẹ không lúc nào vui. Grêten dốc túi ngọc xuống đất và Hênxen thò tay vào túi lấy ra từng nắm ngọc. Từ đó, cả nhà hết lo và cùng nhau sống một cuộc đời hạnh phúc.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:48  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Jôrinđơ và Jôgigơn






Grim





Ngày xưa, có một bà già sống một mình trong một tòa lâu đài cổ giữa một khu rừng bao la, rậm rạp. Đó là một mụ phù thủy cừ khôi. Ban ngày, mụ hóa thành mèo hoặc cú vọ. Đến chiều tối, mụ lại hiện nguyên hình người. Mụ có tài dụ dỗ muông thú để giết lấy thịt nấu nước ăn. Quanh lâu đài một trăm bước, ai đi đến tự dưng đứng sững tại chỗ, chỉ bước đi được khi mụ phù thủy cho phép. Khi một cô gái trong sạch lọt vào cái vòng ma quái đó thì mụ sẽ hóa phép biến thành chim, mụ đem nhốt vào lồng rồi đặt lồng vào một phòng của lâu đài.

Có một cô gái tên là Jôrinđơ, đẹp hơn tất cả các cô gái khác. Cô đã hứa hôn với chàng trai tên là Jôringơn. Đôi trai gái sống những ngày chờ cưới và quấn quít bên nhau. Để được chuyện trò thoải mái, một hôm họ vào rừng dạo chơi.

- Em cẩn thận chớ đến quá gần lâu đài! - Jôringơn dặn.

Buổi chiều thật là đẹp. Mặt trời còn chiếu nắng qua các thân cây thành các vệt sáng trên nền trời xanh thẫm của rừng. Chim gáy gù rầu rĩ trên cây sồi. Jôrinđơ thỉnh thoảng lại khóc lóc, ngồi dưới ánh nắng mà than vãn, Jôringơn cũng than vãn. Họ xúc động như chết đến nơi. Họ nhìn quanh, nhưng lại không tìm ra đường về nhà. Mặt trời đã khuất một nửa sau rặng núi. Đúng lúc đó Jôringơn nhìn qua bụi rậm thấy các bức tường cổ của lâu đài hiện ra sát bên mình. Anh sợ hãi tái nhợt như người chết. Jôrinđơ hát:

- Con chim bé nhỏ của tôi đeo chiếc nhẫn vàng. Rên rỉ buồn thảm, nó khóc than cái chết của con chim bồ câu.

Jôringơn quay lại nhìn Jôrinđơ thì thấy cô đã hóa thành một con chim họa mi đang hót. Một con cú có đôi mắt như lửa đỏ bay quanh cô ba lần và kêu ba lần: "Hú! Hú! Hú!" Jôringơn không nhúc nhích được. Anh đứng nguyên tại chỗ như phỗng đá, không khóc được. Mặt trời đã lặn. Con cú bay vào bụi rậm và ngay sau đó một mụ già gù từ trong bụi bước ra. Mụ gày gò, vàng vọt, có đôi mắt đỏ rực, cái mũi khoằm và nhọn chấm sát cằm. Mụ làu nhàu, bắt chim họa mi để lên tay mang đi. Jôringơn không nói gì được, không động đậy được. Chim họa mi không còn ở đấy nữa. Cuối cùng, mụ già trở lại nói giọng âm u: "Ta chào ngươi, đồ ngu. Khi nào trăng chiếu sáng cái rổ nhỏ này là lúc xéo đi ngay, đồ ngu ạ". Thế là Jôringơn thoát. Anh quỳ xuống chân mụ già, van xin mụ hãy tha cho Jôrinđơ. Mụ trả lời là không bao giờ anh lại nhìn thấy mặt cô nữa, rồi mụ đi. Anh gào khóc và rên rỉ nhưng vô ích: "Trời ơi! Cái gì sẽ đến với tôi đây?".

Jôringơn rời chỗ đó đến một làng quê xa lạ. Một thời gian dài, anh chăn cừu. Nhiều lần anh đi quanh lâu đài, nhưng không lại gần quá. Một đêm, anh ngủ mê thấy mình được một bông hoa đỏ như máu, ở giữa có một hạt ngọc to và đẹp vô cùng. Anh hái bông hoa, tiến đến lâu đài. Hoa đụng vào cái gì thì cái đó liền thoát khỏi phù phép. Anh cũng mơ thấy nhờ có bông hoa, anh lấy lại được Jôrinđơ. Sáng sớm ngủ dậy, anh ra đi, trèo đèo, lội suối, đi tìm bông hoa như đã mơ thấy. Anh đi tám ngày, sáng sớm ngày thứ chín, anh tìm thấy bông hoa đỏ như máu. Một giọt sương to, đẹp như hạt ngọc đẹp nhất trần gian, nằm ở giữa nhị hoa. Anh cầm hoa đi suốt ngày đêm tới lâu đài. Khi còn cách một trăm bước, anh không bị đứng bất động. Anh tiếp tục đi đến cửa lâu đài. Lòng tràn ngập vui sướng, anh chạm bông hoa vào cửa. Cửa mở toang ra. Đi qua sân, anh vào lâu đài. Anh lắng nghe chim hót một lúc. Rồi anh đi về phía có chim hót. Anh tìm ra căn phòng mà ở đó mụ phù thủy đang cho chim ăn; chim bị nhốt trong bảy nghìn chiếc lồng nhỏ. Khi mụ nhận ra Jôringơn, mụ nổi giận, mụ giận dữ kêu thét ầm ĩ, phun thuốc độc và mật đắng vào anh, nhưng mụ không tiến lại gần anh một khoảng cách là hai bước. Anh không để ý gì đến mụ, tiếp tục đi nhìn các lồng có nhốt chim. Anh thấy hàng trăm con chim họa mi. Làm thế nào tìm được ra Jôrinđơ trong số chim đó? Trong khi chú ý nhìn chim, anh nhận thấy mụ già rón rén đi lấy một cái lồng nhốt một con chim rồi bước về phía cửa. Anh nhẩy bổ lại gần mụ, chạm bông hoa vào cái lồng và mụ ta. Thế là phép phù thủy mụ hết thiêng! Jôrinđơ hiện ra đứng đó, ôm cổ anh, vẫn đẹp như xưa. Rồi anh giúp cho tất cả mọi con chim hoàn nguyên hình thành thiếu nữ. Anh cùng Jôrinđơ về nhà và sống hạnh phúc cho đến khi đầu bạc răng long.

Câu chuyện ca ngợi tình yêu bất diệt: tình yêu sẽ chiến thắng tất cả những thế lực xấu xa nhất. Đồng thời kẻ gây tội ác bao giờ cũng bị trừng trị thích đáng.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:49  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Nàng công chúa chăn ngỗng




Grim




Ngày xưa có một bà hoàng hậu tuổi đã cao. Đức vua chết đã lâu. Bà có một cô con gái rất xinh đẹp. Khi lớn lên, nàng được hứa hôn với một chàng Hoàng tử con vua một nước xa xôi.

Đến ngày tổ chức lễ cưới, nàng công chúa sửa soạn đi đến nước xa lạ. Mẹ nàng gói ghém cho nàng những vật quí giá: đồ trang sức, vàng, bạc, cốc, châu ngọc, tóm lại là tất cả những gì xứng đáng làm của hồi môn cho một công chúa, vì mẹ nàng rất mực thương nàng. Mẹ nàng gửi gắm nàng cho một thị nữ có nhiệm vụ dẫn nàng đi đến chỗ ở người chồng chưa cưới. Mỗi người cưỡi một con ngựa. Ngựa công chúa cưỡi tên là Phalađa, biết nói.

Đến lúc chia tay, bà hoàng vào trong phòng ngủ, lấy một con dao nhỏ trích ngón tay, để chảy ba giọt máu. Bà cho máu thấm xuống một cái khăn trắng nhỏ, đưa cho cô gái và dặn: "Con thân yêu, con hãy giữ gìn cẩn thận cái khăn này, nó sẽ có ích cho con trên đường đi".

Hai mẹ con buồn bã từ biệt nhau. Công chúa áp cái khăn lên ngực, nhảy lên yên ngựa để đi đến nơi ở của người yêu. Sau khi đã đi một tiếng, cô cảm thấy khát khô họng, bèn bảo thị nữ: "Em hãy xuống ngựa, lấy cốc của ta múc nước suối kia và mang lại đây cho ta, ta khát nước lắm". "Nếu cô khát, thị nữ trả lời, thì hãy tự nhảy xuống, rồi vươn người ra trên mặt nước mà uống. Tôi không phải là đầy tớ của cô".

Công chúa khát lắm, bèn xuống ngựa, cúi xuống dòng nước suối để uống nước. Nàng không dám uống nước bằng cốc vàng. "Trời ơi!" nàng kêu to. Ba giọt máu bảo cô: "Nếu mẹ cô biết sự tình thế này, thì hẳn tim bà sẽ tan nát trong ngực". Nhưng công chúa là người can đảm. Nàng không nói gì và lại nhảy lên ngựa. Ngựa phi được vài dặm. Trời thì nóng nực, chẳng mấy chốc nàng lại khát nước. Tới một con sông, nàng bảo thị nữ: "Em hãy xuống ngựa và cho ta uống nước bằng cái cốc vàng". Cô đã quên đứt những lời độc ác của thị nữ. Nhưng thị nữ lại trả lời ngạo mạn hơn: "Nếu cô khát thì tự đi uống nước một mình, tôi không phải là đầy tớ của cô".

Công chúa khát quá, nhảy xuống ngựa, cúi xuống dòng nước chảy xiết, khóc và kêu lên: "Trời ơi!" Ba giọt máu liền đáp lại: "Nếu mẹ cô biết sự tình thế này, thì hẳn tim bà tan nát trong ngực". Trong khi cô cúi xuống để uống thì cái khăn có thấm ba giọt máu, tuột khỏi ngực cô và trôi theo dòng nước mà cô không hay biết, vì lúc đó cô rất sợ hãi. Thị nữ thì lại trông thấy hết và nó rất vui mừng từ giờ trở đi công chúa sẽ bị nó trả thù. Từ lúc đánh mất ba giọt máu, công chúa trở nên yếu đuối, không đủ sức tự vệ nữa. Khi nàng định trèo lên con ngựa Phalađa thì thị nữ bảo: "Tôi sẽ cưỡi con Phalađa, còn cô, cô hãy cưỡi con ngựa tồi của tôi". Công chúa đành làm như vậy.

Tiếp đó thị nữ ra lệnh, lời lẽ gay gắt, bắt nàng phải cởi quần áo hoàng cung ra và mặc quần áo của nó vào. Cô lại phải thề với trời đất là khi đến cung điện sẽ không nói lộ ra. Nếu cô không chịu thề thì nó sẽ giết cô tại chỗ. Nhưng con Phalađa đã quan sát tất cả và ghi nhớ tất cả.

Thị nữ cưỡi con Phalađa, còn công chúa thì cưỡi con ngựa tồi. Nó lại tiếp tục đi, cuối cùng đến lâu đài nhà vua. Ở đấy, mọi người rất vui mừng khi họ tới, và Hoàng tử vội chạy tới tận nơi đón họ, đỡ thị nữ xuống ngựa, vì tưởng rằng đó là vợ chưa cưới của mình. Thị nữ đi lên bậc thềm lâu đài, còn nàng công chúa thì phải đứng lại ngoài sân. Vua cha nhìn ra, qua cửa sổ thấy nàng duyên dáng và tuyệt đẹp. Người vào trong cung hỏi cô gái được coi là vợ chưa cưới của Hoàng tử xem cô gái đứng ngoài sân là ai. "Tâu vua cha, con đã gặp cô gái đó trên đường đi và con đưa cô ta đi cùng để đỡ lẻ loi một mình. Xin vua cha cho cô ta làm việc để cô ta khỏi phải vô công rồi nghề".

Nhưng vua cha không có việc gì giao cho cô làm cả. Người bảo: "Ở ngoài kia, ta có một anh chàng chăn ngỗng, hãy để cô ta giúp việc vậy". Chàng trai tên là Cuốc. Vợ chưa cưới của Hoàng tử phải giúp anh chăn ngỗng.

Ít lâu sau, vợ chưa cưới giả tâu với hoàng tử: "Chàng thân yêu ơi, em muốn một điều, chàng hãy làm vui lòng em". Hoàng tử nói: "Được thôi!"

"Chàng hãy cho gọi người thợ lột da đến đập chết con ngựa em đang cưỡi đến đây, vì trong khi đi đường nó làm em bực tức".

Thật ra thì nó sợ con ngựa kể lại cách nó đã đối xử với công chúa. Đến lúc con ngựa trung thành Phalađa phải chết thì công chúa được tin. Nàng hứa với người thợ lột da là sẽ bí mật biếu anh một đồng tiền bằng bạc nếu anh giúp nàng một việc nhỏ. Trong đô thị có một cái cổng to rất tối, hàng ngày, sớm tối nàng phải dẫn đàn ngỗng đi qua. Nàng xin người thợ lột da hãy đóng đanh treo đầu con Phalađa vào cái cổng ấy để nàng có thể luôn luôn trông thấy nó. Người thợ lột da hứa sẽ làm và bác đóng chặt đanh treo đầu ngựa vào dưới cái cổng tối om.

Sáng sớm, khi cùng Cuốc đi qua cổng, cô bảo cái đầu: "Ôi, Phalađa, mày bị treo ở đây ư!"

Cái đầu trả lời: "Ôi! Nàng công chúa của tôi, nàng qua đây ư! Nếu mẹ nàng biết nông nỗi này tim mẹ sẽ vỡ tan tành".

Lặng lẽ, cô đi khỏi đô thị, dẫn đàn ngỗng ra cánh đồng. Đến đồng cỏ, cô ngồi xuống và rũ tóc ra. Tóc cô óng ánh như vàng nguyên chất và Cuốc rất thích nhìn mớ tóc ấy lóe sáng. Anh muốn nhổ vài sợi tóc. Công chúa bèn nói: "Ta khóc đây, ta khóc đây! Hỡi làn gió nhẹ. Hãy cuốn cái mũ của Cuốc đi! Anh ta sẽ chạy theo cái mũ cho đến khi nào tóc ta chải và tết xong".

Tức thì gió thổi mạnh cuốn đi cái mũ của Cuốc. Anh ta chạy theo ngay. Khi anh trở về thì công chúa đã chải đầu xong và anh không nhổ được sợi tóc nào. Anh rất bực và không nói năng gì với cô nữa. Họ lại tiếp tục chăn ngỗng đến chiều, rồi cùng về nhà.

Sáng sớm hôm sau, khi lùa ngỗng qua cổng, cô gái nói: "Ôi, Phalađa, mày bị treo ở đây ư!"

Cái đầu trả lời: "Ôi! Nàng công chúa của tôi, nàng qua đây ư! Nếu mẹ nàng biết nông nỗi này, tim mẹ sẽ vỡ tan tành".

Đi ra khỏi đô thị, cô lại ngồi trên đồng cỏ và lại rũ tóc ra chải. Cuốc muốn nắm lấy mớ tóc. Cô vội vàng nói: "Ta khóc đây, ta khóc đây! Hỡi làn gió nhẹ, hãy cuốn cái mũ của Cuốc đi! Anh ta sẽ chạy theo cái mũ cho đến khi nào tóc ta chải và tết xong".

Gió nổi lên, cuốn cái mũ đi. Cuốc phải chạy theo. Khi anh trở về thì công chúa đã chải đầu xong từ lâu và anh không nắm được mớ tóc ấy. Và rồi hai người lại cùng chăn ngỗng đến chiều.

Nhưng chiều hôm ấy, về tới nhà, Cuốc đến gặp vua cha và tâu: "Kính thưa hoàng thượng, con không thể chăn ngỗng cùng cô gái này nữa" - "Tại sao vậy?", vua hỏi. "Suốt ngày, cô ta làm con bực mình!" - Vua cha bảo anh kể lại sự việc đã xảy ra.

Cuốc nói: "Buổi sáng, chúng con dẫn đàn ngỗng qua cái cổng tối om, ở đấy có một cái đầu ngựa treo trên tường. Cô ta nói với nó: "Ôi, Phalađa, mày bị treo ở đây ư!" Cái đầu trả lời: "Ôi! Nàng công chúa của tôi, nàng qua đây ư! Nếu mẹ nàng biết nông nỗi này tim mẹ sẽ vỡ tan tành."

Và Cuốc kể các sự việc đã xảy ra ở cánh đồng chăn ngỗng và tại sao anh ta lại phải chạy theo cái mũ. Vua cha dặn anh ta ngày hôm sau cứ đi chăn ngỗng như thường lệ. Sáng sớm ngài thân chinh đến dưới cái cổng tối om và nghe được những câu cô gái nói với cái đầu Phalađa. Ông theo ra cánh đồng và nấp vào một bụi cây. Chính mắt ngài trông thấy anh thanh niên và cô gái lùa ngỗng thế nào và sau một lúc, cô gái ngồi xuống gỡ mớ tóc vàng lóe sáng. Rồi cô lại nói: "Ta khóc đây, ta khóc đây! Hỡi làn gió nhẹ, hãy cuốn cái mũ của Cuốc đi! Anh ta sẽ chạy theo cái mũ cho đến khi nào tóc ta chải và tết xong".

Một cơn gió thổi mạnh, cuốn cái mũ đội đầu của Cuốc đi. Anh phải chạy theo rất xa. Cô gái chăn ngỗng chải tóc và cuốn thành từng búp. Vua cha nhìn thấy tất cả. Không ai nhận ra ngài khi ngài rời khỏi đó. Chiều đến, cô gái về nhà, ngài cho gọi cô đến và hỏi tại sao cô lại làm như thế. "Tâu bệ hạ, con không thể nói được", - cô trả lời. - "Con không thể kể nỗi khổ của con với bất cứ ai trên thế gian này, con đã thề như vậy để khỏi bị người ta giết". Vua cha cô ép cô nói, nhưng ngài không biết được gì thêm bèn nói: "Nếu con không muốn nói với ta, thì con hãy kể nỗi khổ của con với cái bếp lò này". Rồi ông bỏ đi. Cô đến ngồi gần cái bếp lò, than khóc, thổ lộ tâm can: "Ta ngồi đây, bị cả thế gian ruồng bỏ, dù ta là con vua. Một tên thị nữ độc ác đã áp chế ta, bắt ta đổi cho nó quần áo hoàng cung. Nó thay thế ta để làm vợ chưa cưới của người yêu ta, và ta bắt buộc phải làm công việc bình thường của người chăn ngỗng. Nếu mẹ ta biết nông nỗi này, tim bà sẽ tan nát".

Vua cha đứng ở phía tường bên kia gần ống thông hơi, ngài đã nghe thấy hết. Ngài trở về và gọi cô hãy rời cái lò đến gặp ngài. Người ta mang đến cho cô quần áo hoàng cung, cô mặc vào đẹp như là có phép lạ. Vua cha cho gọi con trai đến và bảo cho con biết về cô vợ chưa cưới giả mạo. Cô người yêu thật đứng trước chàng, đấy là cô gái chăn ngỗng. Hoàng tử thấy cô rất đẹp và phúc hậu nên lòng tràn ngập niềm vui. Một bữa tiệc được sửa soạn để mời tất cả các bạn bè thân thuộc. Hoàng tử và công chúa ngồi ở đầu bàn, trước mặt họ là con thị nữ. Nó bị choáng ngợp và không nhận ra cô chủ trang sức lộng lẫy. Khi họ đang ăn uống vui vẻ, vua cha ra một câu đố cho thị nữ. Nó phải trả lời là một người đàn bà lừa dối chủ thì sẽ bị xử tội như thế nào. Ngài kể các sự việc đã xảy ra và hỏi nó: "Như thế sẽ xứng đáng với hình phạt gì". - "Nó xứng đáng phải đuổi đi khỏi đất nước" - "Kẻ ấy chính là mày, mày sẽ bị xử tội như mày nói".

Sau khi hình phạt được thi hành, Hoàng tử cưới nàng công chúa làm vợ và họ trị vì đất nước trong hòa bình và hạnh phúc.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:51  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Mèo làm thân với chuột



Grim




Mèo làm thân với chuột. Mèo kể lể tâm tình tha thiết, chuột nghe bùi tai đồng ý ăn ở chung với mèo. Mèo bảo:

- Ta phải đề phòng mùa rét kẻo rồi bị đói. Chú mày chớ có đi lại liều lĩnh kẻo rồi mắc bẫy đấy.

Chuột nghe lời. Chúng đi mua một niêu mỡ nhưng không biết cất đâu. Suy nghĩ mãi, mèo bảo:
"Anh thấy chẳng còn nơi nào cất tốt bằng ở nhà thờ vì ở đấy không ai dám lấy gì đi. Cánh ta đem cất niêu dưới gầm bàn thờ, chưa cần mỡ thì ta nhất định không rờ đến". Thế là chúng cất niêu thật kỹ. Nhưng chẳng bao lâu mèo ta thèm mỡ, nói với chuột:

- Chú chuột ạ, anh muốn nói với chú điều này. Anh có người chị họ mời đến làm bố đỡ đầu cho cháu. Chị ấy sinh được con trai, lông trắng đốm nâu, anh phải đi dự lễ đỡ đầu. Hôm nay anh đi, chú ở nhà trông coi nhà cửa một mình nhé.

Chuột đáp:

- Vâng vâng, lạy Chúa ban phước lành cho anh đi, có miếng ngon, anh nhớ lấy phần về cho em nhé. Em ao ước được nhắp rượu vang đỏ ngọt.

Nhưng tất cả những điều mèo nói đều sai cả. Mèo chẳng có chị em họ nào, mà cũng chẳng có ai mời đến làm lễ đỡ đầu. Nó đến thẳng nhà thờ, lén đến niêu mỡ, ăn xong liếm lông cho sạch mỡ. Rồi nó dạo chơi trên mái nhà thành phố, nhìn quanh quẩn, nằm ườn sưởi nắng, mỗi lần nhớ đến niêu mỡ lại chùi mép. Mãi đến chiều nó mới về nhà. Chuột nói:

- Thế nào, anh đã về đấy à? Chắc là cả ngày nhởn nhơ vui thú lắm nhỉ?

- Ừ thú lắm.

Chuột hỏi:

- Đứa trẻ đặt tên đỡ đầu là gì?

Mèo đáp gọn lỏn:

- "Liếm sạch lông".

Chuột reo lên:

- Sao lại là "Liếm sạch lông". Thật là một cái tên lạ lùng, hiếm có. Trong họ anh, tên ấy có thông thường không?

Mèo nói:

- Có gì lạ đâu! Tên ấy cũng không có gì xấu hơn tên "Ăn cắp vặt" là tên đỡ đầu của chú?

Cách đó ít lâu, mèo lại nổi cơn thèm, nói với chuột:

- Chú làm ơn giúp anh nhé. Nhờ chú trông nom nhà cửa một mình chuyến nữa. Anh lại có người mời đi làm bố đỡ đầu lần thứ hai. Đứa trẻ có vòng lông trắng quanh cổ, anh không tiện từ chối.

Chuột tốt bụng, nhận lời. Mèo kín đáo đi đến nhà thờ ăn thêm một nửa niêu mỡ. Nó nghĩ bụng: "Không gì ngon hơn là ăn một mình", và lấy làm thú vị về việc làm ngày hôm đó. Khi về nhà, chuột hỏi:

- Thế nào anh, tên đỡ đầu của đứa trẻ là gì?

Mèo đáp:

- "Hết một nửa"

- Sao lại "Hết một nửa"? Anh nói gì thế? Từ thủa cha sinh mẹ đẻ, em chưa nghe thấy tên ấy bao giờ. Em cuộc là tên ấy không có ở trong lịch sử.

Sau đó ít lâu, nghĩ đến mỡ, mèo lại thèm nhỏ dãi. Nó liền bảo chuột:

- Quá tam ba bận. Anh lại phải đứng ra làm bố đỡ đầu. Đứa trẻ đen tuyền. Trừ chân trắng, không có một sợi lông trắng nào trên người, thật là mấy năm mới có một lận sinh thế. Chú mày để anh đi nhé!

Chuột đáp:

- "Liếm sạch lông", "Hết một nửa", tên gì mà quỉ quái thế, em cứ suy nghĩ mãi đấy.

Mèo nói:

- Chú cứ ru rú xó nhà với cái áo lông màu xám thẫm và cái đuôi dài mà nghĩ lẩn thẩn. Ấy chẳng qua là tại cả ngày không chịu đi ra ngoài đấy thôi!

Trong khi mèo đi vắng, chuột dọn dẹp nhà cửa ngăn nắp. Mèo háu ăn chén sạch niêu mỡ. Nó nghĩ bụng: "Chỉ chén kỳ hết mới yên tâm". Mãi đến đêm, nó mới về nhà, no nứt bụng. Chuột hỏi luôn tên đứa trẻ được rửa tội là gì. Mèo đáp:

- Chắc là chú không vừa lòng đâu! Tên nó là "Hết sạch".

Chuột kêu:

- "Hết sạch", thật là một tên lạ lùng. Em chưa đọc thấy tên ấy bao giờ. "Hết sạch" thế là nghĩa lý gì nhỉ?

Nó lắc đầu, nằm cuộn tròn người lại ngủ. Từ đó trở đi, chẳng có ai đến mời mèo đi làm bố đỡ đầu nữa. Nhưng khi mùa đông tới, ra ngoài đồng không kiếm được gì ăn nữa, chuột mới nghĩ đến thức ăn để dành:

- Anh mèo ạ, ta đi tìm niêu mỡ để dành đi, chắc là ngon lắm đấy.

Mèo đáp:

- Được. Hẳn chú sẽ thấy ngon lắm, ngon như thể lưỡi liếm không khí ấy mà!

Chúng ra đi, tới nơi thì thấy niêu vẫn còn nguyên chỗ cũ nhưng chỉ có niêu không.
Chuột bảo:

- Thì ra thế, bây giờ tôi mới hiểu các việc đã xảy ra. Bây giờ mới rõ anh thật là bạn tốt. Anh đã đánh chén hết. Anh làm cha đỡ đầu như thế đấy: Lần đầu "Liếm sạch lông", lần sau "Hết một nửa", rồi...

Mèo hét lên:

- Câm mồm ngay. Mày còn nói tiếng nữa là tao ăn thịt mày đấy.

Tội nghiệp con chuột không kềm được tiếng: "Hết sạch". Vừa nói buông miệng thì mèo đã vồ nó nuốt chửng.

Bạn xem đấy, tình đời là thế đấy!



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:52  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Mười hai người thợ săn



Grim



Ngày xưa có một vị Hoàng tử yêu vợ chưa cưới tha thiết. Một hôm, chàng đang ngồi bên nàng rất đỗi sung sướng thì nhận được tin cha ốm sắp chết muốn gặp mặt chàng trước khi nhắm mắt. Chàng liền bảo người yêu:

- Anh phải từ biệt em đi ngay. Anh tặng em chiếc nhẫn này làm kỷ niệm. Mai sau anh lên ngôi vua rồi, anh sẽ trở lại đón em.

Chàng lên ngựa ra đi. Khi chàng về gặp vua cha thì vua ốm thập tử nhất sinh sắp chết đến nơi. Vua cha phán:

- Con yêu dấu ạ. Cha muốn nhìn mặt con một lần cuối cùng trước khi chết. Con phải hứa với cha là sau khi cha chết đi, con sẽ lấy vợ theo ý muốn của cha.

Rồi vua cho chàng biết tên một nàng công chúa mà chàng phải lấy làm vợ. Trong lúc choáng váng cả người, Hoàng tử không suy nghĩ gì, chỉ thưa:

- Thưa cha, con sẽ làm theo như ý cha.

Nhà vua, nhắm mắt từ trần. Hoàng tử lên ngôi vua. Hết thời gian tang lễ chàng phải giữ lời
hứa với cha cho đi hỏi nàng công chúa ấy và được nàng nhận lời. Người vợ chưa cưới đầu tiên của chàng được tin đó buồn bao vì bị phụ tình ốm suýt chết. Cha nàng liền hỏi nàng:

- Con yêu dấu, làm sao con buồn rầu thế? Con ước muốn gì, cha cũng cho.

Nàng nghĩ một lúc rồi nói:

- Thưa cha, con mong ước có mười một thiếu nữ từ mặt mũi, hình dáng, vóc người đều giống con y hệt.

Vua cha nói:

- Nếu là điều có thể làm được thì điều ước của con nhất định sẽ thành sự thật.

Vua sai người đi tìm trong khắp nước kỳ cho đến khi được đủ mười một thiếu nữ giống con gái mình y hệt, từ mặt mũi hình dáng, đến khổ người. Khi các thiếu nữ có đến trước công chúa, nàng cho may mười hai bộ quần áo đi săn y hệt nhau, cho mười một cô mặc vào, chính nàng cũng mặc một bộ. Sau đó, nàng từ biệt vua cha, cùng họ lên ngựa đi đến triều đình của người chồng chưa cưới cũ mà nàng đã yêu tha thiết. Nàng đến hỏi xem nhà vua có cần thợ săn và có muốn mượn cả mười hai người không? Vua nhìn nàng nhưng không nhận ra được. Vua thấy họ đẹp quá nên đồng ý mượn cả. Thế là họ thành mười hai người thợ săn của nhà vua.

Nhà vua vốn có một con sư tử. Đó là con vật kỳ lạ biết hết mọi điều bí ẩn. Một buổi tối nó nói với nhà vua:

- Bệ hạ đinh ninh là có mười hai người thợ săn phải không?

Vua bảo:

- Đúng, đó là mười hai người thợ săn.

Sư tử lại nói tiếp:

- Bệ hạ lầm rồi, đó là mười hai thiếu nữ đấy.

Vua đáp:

- Nhất định không đúng. Người làm thế nào chứng minh được việc ấy!

Sư tử đáp:

- Ồ dễ thôi, bệ hạ chỉ việc rải đỗ vào phòng thì biết ngay. Đàn ông bước mạnh nên khi giẫm lên đỗ thì không hạt nào động đậy, nhưng phụ nữ bước thì thoăn thoắt lại hay xoay chân, hạt đỗ sẽ lăn đi.

Vua khen là kế hay, cho rắc hạt đỗ. Nhưng có người hầu nhà vua có lòng tốt đối với những người thợ săn, nghe thấy nói nhà vua nhất định thử họ, liều đi kể cho biết hết và bảo:

- Sư tử nó muốn mách nhà vua rằng các người là gái cả đấy.

Công chúa cảm ơn bác ta rồi bảo các cô thiếu nữ:

- Các em cố sức giẫm mạnh lên các hạt đỗ nhé.

Sáng hôm sau nhà vua truyền mười hai người thợ săn đến phòng có rải hạt đỗ. Các cô thiếu nữ cố giẫm thật mạnh, bước đi của họ khỏe và chắc đến nỗi không một hạt đỗ nào lăn hoặc chuyển động, sau khi họ đi khỏi, nhà vua bảo sư tử:

- Mày đánh lừa tao rồi, chúng đi chắc bước, đó là đàn ông.

Sư tử đáp:

- Vì biết là bị thử thách nên họ đã gắng đi cho chắc bước. Bệ hạ cứ để mười hai chiếc guồng kéo kéo sợi vào phòng, họ sẽ mừng rỡ và xán lại ngay, đàn ông thì không bao giờ thế.

Nhà vua cho là kế hay, bèn sai để guồng kéo sợi vào phòng. Nhưng người hầu vốn thật thà với những người thợ săn, đến nói lộ cho họ biết hết mưu kế. Công chúa bảo riêng mười một thiếu
nữ: "Các em cố nhịn đừng có ngó tới guồng kéo sợi nhé".

Sáng hôm sau vua cho triệu mười hai người thợ săn đến, họ vào phòng không chú ý gì đến guồng sợi. Vua lại bảo sư tử:

- Mày đánh lừa tao. Đúng là đàn ông rồi, vì chúng không nhìn gì đến guồng kéo sợi.

Sư tử đáp:

- Họ biết là bị thử thách nên cố nhịn đấy.

Nhưng vua nhất định không tin sư tử nữa. Ngày nào mười hai người thợ săn cũng theo vua đi săn, càng ngày vua càng yêu quí họ. Một hôm trong khi họ đi săn, thì được tin vợ chưa cưới của nhà vua sắp tới. Người vợ chưa cưới chính thức nghe vậy đau khổ quá. Tim bị nhói lên ngã lăn xuống đất bất tỉnh nhân sự. Vua tưởng là người thợ săn yêu quí của mình bị làm sao vội
chạy lại cứu. Vua lại tháo bao tay ấy thì thấy chiếc nhẫn mình đã tặng cho người vợ chưa cưới thứ nhất. Vua nhìn mặt nhận ra nàng. Lòng vua hồi hộp, vua hôn nàng lúc nàng mở mắt, vua bảo:

- Em là của anh, anh là của em. Thiên hạ không ai thay đổi được điều ấy.

Vua phái sứ giả đến gặp người vợ chưa cưới kia xin nàng quay về nước vì vua đã có vợ rồi. Ai đã tìm thấy chiếc chìa khóa cũ thì không cần đến chiếc mới nữa. Sau đó hôn lễ được cử hành. Sư tử được tha tội, vì quả là nó nói đúng sự thật.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:54  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Người đầy tớ trung thành



Grim



Xưa có một ông vua tuổi già lâm bệnh, nghĩ bụng: "Ta chết đến nơi mất rồi". Vua cho đòi "bác Jôhannơt trung thành" tới. Bác là người hầu được vua yêu nhất. Bác đã suốt đời tận tụy với vua. Vì vậy mà vua gọi bác là "bác Jôhannơt trung thành".

Khi bác đến bên giường vua, vua phán:

- Jôhannơt trung thành ơi, ta biết ta sắp chết, ta chỉ băn khoăn về con ta. Nó còn ít tuổi, dại dột, nếu nhà ngươi không hứa với ta sẽ dạy cho nó biết những cái gì cần biết và khuyên nó như người cha thứ hai, thì ta không yên tâm mà nhắm mắt.

Bác Jôhannơt đáp:

- Dù phải hy sinh đến tính mệnh, thần cũng không rời bỏ hoàng tử. Thần xin thề một lòng một dạ phụng sự hoàng tử.

Vua nói:

- Thế thì ta chết cũng được yên tâm. Sau khi ta đã nhắm mắt rồi, thì nhà ngươi dẫn cho nó xem toàn thể cung điện, tất cả các buồng, các phòng, các hầm, cùng tất cả châu báu ở đó, trừ cái buồng ở cuối hành lang dài có bức chân dung công chúa Mai vàng, vì ta sợ nó đâm si tình mà ngất đi, rồi sẽ gặp nhiều tai ương. Nhà ngươi phải bảo vệ nó.

Sau khi nghe "bác Jôhannơt trung thành" thề lần thứ hai, vua yên lặng, đặt đầu xuống gối, rồi tắt thở.

Tang lễ đã làm xong, bác Jôhannơt trung thành cho vua mới biết lời mình thề với vua cha bên giường bệnh và nói:

- Thần sẽ giữ lời thề và sẽ tận tụy với bệ hạ cũng như với vua cha, dù phải hy sinh tính mệnh cũng cam.

Đoạn tang vua cha, bác Jôhannơt trung thành tâu với vua mới:

- Bây giờ là lúc thần phải cho bệ hạ biết kho tàng của người. Thần xin đưa bệ hạ đưa bệ hạ đi thăm cung điện vua cha để lại.

Bác dẫn vua đi khắp cả cung điện, từ trên xuống dưới, xem tất cả của báu, trừ cái buồng có bức chân dung nguy hiểm là bác không mở. Bức chân dung để ở chỗ mà mới thoạt mở cửa là nom thấy ngay, lộng lẫy trông tựa người thật, đẹp và có duyên nhất trần gian. Vua thấy đến cửa đó bác Jôhannơt đi thẳng qua liền hỏi:

- Sao nhà ngươi không mở cửa ấy cho ta?

Jôhannơt đáp:

- Dạ bẩm trong đó có cái đáng ngại cho bệ hạ.

Nhà vua nói:

- Ta đã xem tất cả cung điện, giờ ta muốn biết trong buồng này có gì.

Vua sắp định cố sức ẩn cửa, thì Jôhannơt trung thành vội níu lại nói:

- Khi vua sắp chết, thần đã hứa không để cho bệ hạ thấy vật ở trong buồng, nếu không sẽ vạ đến bệ hạ và lẫn cả thần.

Nhà vua đáp:

- Không được. Nếu không vào được thì ta cũng đến héo hon. Ta sẽ ăn không ngon ngủ không yên, nếu không được thấy cho tận mắt. Ta cứ đứng lì đây cho đến khi nào ngươi chịu mở cửa ra.

Biết không ngăn được vua, Jôhannơt trung thành buồn bã thở dài, tìm chìa khóa buồng trong chùm chìa khóa to của bác. Bác mở cửa buồng vào trước, định che bức chân dung không cho vua trông thấy, nhưng không được vì vua đứng kiễng lên nhìn qua vai bác. Khi trông thấy người thiếu nữ đẹp lộng lẫy, đeo toàn vàng ngọc, vua lăn ra, bất tỉnh nhân sự. Bác Jôhannơt trung thành nâng nhà vua dậy, mang lên giường và lo lắng nghĩ: "Trời ơi! Tai họa đã xảy đến rồi. Biết làm sao bây giờ?"

Bác đổ rượu vang cho vua. Vua tỉnh lại hỏi:

- Cô gái đẹp trong tranh là ai?

Jôhannơt trung thành đáp:

- Dạ thưa, đó là nàng công chúa Mai vàng.

Vua nói:

- Ta yêu nàng say đắm. Dẫu tất cả lá cây đều biến ra lưỡi thì cũng không thể nói hết được lòng ta. Ta phải chiếm được nàng thì ta mới sống được. Ngươi là Jôhannơt trung thành của ta thì ngươi phải giúp ta làm việc này.

Người hầu trung thành suy nghĩ mãi, vì riêng việc tìm đến gặp mặt Công chúa cũng đã khó. Mãi sau bác mới nghĩ ra một mẹo, liền tâu vua:

- Chung quanh Công chúa, cái gì cũng bằng vàng, từ bàn ghế đến bát đĩa cốc tách và các đồ gia dụng khác. Bệ hạ có cả thảy năm tấn vàng. Bệ hạ nên giao cho thợ kim hoàn một tấn để làm đủ các vật dụng cùng các loại chim, thú rừng, các con vật kỳ lạ. Công chúa sẽ thích lắm.
Ta sẽ đem những của đó đến gặp nàng xem sao.

Vua sai đòi tất cả các thợ kim hoàn trong nước đến bắt làm đêm ngày cho xong những vật đẹp lộng lẫy. Khi đã đem các thứ đó xuống thuyền, "bác Jôhannơt trung thành" ăn mặc giả nhà buôn, vua cũng trá hình như vậy. Vua tôi vượt bể đi đến thành phố của Công chúa Mai vàng.
"Jôhannơt trung thành" lên bến một mình, dặn vua ở lại chờ. Bác nói:

- May ra thì thần đem được công chúa về đây. Vậy bệ hạ nên cho dọn dẹp trang trí con thuyền, bày đồ vàng ra.

Sau đó, bác dắt vào lưng đủ mọi thứ nữ trang, rồi lên bờ đi đến cung điện vua cha nàng.
Khi vào trong sân, bác thấy một cô gái đẹp ở gần giếng cầm hai chiếc thùng vàng múc nước. Lúc quẩy nước lóng lánh đi, cô ngoảnh lại, trông thấy khách lạ, liền hỏi bác là ai. Bác cởi thắt lưng ra cho cô xem mà nói:

- Tôi là lái buôn, cô ạ.

Cô reo lên:

- Lắm đồ tư trang đẹp thật!

Cô đặt thùng nước xuống, xem từng thứ rồi nói:

- Công chúa thích đồ vàng lắm. Ông cho Công chúa xem, Công chúa sẽ mua tất cả đấy.

Cô gánh nước đó là thị tì của Công chúa. Cô dẫn bác đến ra mắt công chúa. Công chúa thấy đồ nữ trang thích quá, nói:

- Đẹp lắm, ta muốn mua ngay tất cả.

Nhưng "bác Jôhannơt trung thành" bảo nàng:

- Tôi chỉ là đầy tớ của một phú thương. Những đồ này chỉ là một phần không đáng kể trong số hàng của chủ tôi để ở trên thuyền. Đồ vàng đó đẹp và quí giá vô cùng.

Nàng muốn bảo đem hàng đến cho nàng xem, nhưng bác Jôhannơt nói:

- Hàng nhiều quá, phải nhiều ngày mới tải được hết đến đây. Trong cung điện này e không có đủ phòng mà chứa.

Nàng càng thêm tò mò ao ước, nói:

- Thế bác đưa ta đến xem những vật quí của chủ để dưới thuyền vậy.

Jôhannơt hớn hở đưa nàng về thuyền. Thấy nàng đẹp hơn cả trong tranh, vua sướng ngây ngất. Nàng xuống thuyền, vua đón vào. Jôhannơt đứng đằng sau bảo người lái cho nhổ neo:

- Căng hết buồm ra cho thuyền lướt nhanh như chim bay.

Trong khi đó, ở trong thuyền, vua cho Công chúa xem bát đũa, cốc chén, chim, thú rừng và những con vật kỳ lạ bằng vàng. Nàng mải mê xem, không để ý là thuyền đã nhổ neo đi được vài giờ rồi. Xem xong, nàng cảm ơn người phú thương giả để về cung. Ra tới mạn thuyền, nàng mới biết thuyền đã ra khơi, cánh buồm đương căng thẳng. Nàng sợ hãi kêu lên:

- Thôi ta bị lừa rồi. Ta bị mắc vào tay một tên lái buôn, thà chết cho rảnh.

Vua cầm tay nàng bảo:

- Tôi không phải là lái buôn, tôi là vua một nước, chỉ vì quá yêu nàng nên phải dùng mưu bắt nàng. Lần đầu thoạt tiên trông thấy chân dung nàng, tôi đã ngã xuống ngất đi.

Công chúa Mai vàng nghe nói yên tâm, cảm kích thuận lấy vua.

Thuyền đang lênh đênh ngoài khơi thì một hôm, bác Jôhannơt ngồi đằng mũi chơi đàn bỗng thấy ba con quạ bay đến trước mặt bác. Bác bèn lắng tai nghe tiếng chúng vì bác hiểu tiếng chúng. Một con nói:

- Úi chà! Vua bắt Công chúa Mai vàng đem đi về nhà rồi!

Con thứ hai nói:

- Nhưng vua chưa chiếm được Công chúa đâu.

Con thứ ba nói:

- Chẳng chiếm được là gì! Công chúa ngồi bên vua ở trong thuyền ấy.

Con thứ nhất lại nói:

- Ăn thua gì! Khi vua lên bộ, một con ngựa màu hung sẽ nhảy lại. Vua mà lên ngựa thì ngựa sẽ bay lên chín tầng mây, vua không còn bao giờ thấy mặt vợ trẻ ấy nữa.

Con thứ hai nói:

- Có cách nào thoát nạn không?

Con thứ nhất đáp:

- Có chứ! Nếu có một người khác nhảy tót lên ngựa, rút súng ở yên ra bắn cho nó chết thì cứu được vua. Nhưng ai biết được việc đó? Người nào biết mà nói với vua thì sẽ hóa đá từ chân đến đầu gối.

Con thứ ba nói:

- Tao còn biết thêm là dù con ngựa có bị giết chăng nữa vua cũng không lấy nổi Công chúa đâu! Khi hai người về đến cung điện, thì thấy một cái đĩa vàng trong đặt một cái áo lót của chú rể trông như dệt bằng vàng bằng bạc nhưng kỳ thực chỉ là nhựa thông và diêm sinh. Nếu vua mặc áo lót đó thì sẽ bị thiêu đến xương tuỷ.

Con thứ nhất hỏi:

- Không có cách nào tránh được nạn ấy à?

Con thứ hai đáp:

- Có, miễn là có người đeo bao tay, cầm áo lót ném vào lửa thì vua thoát nạn, Nhưng cũng chẳng ăn thua gì! Người nào biết mà nói ra cho vua biết thì sẽ hóa đá từ đầu gối đến quả tim.

Con thứ ba nói:

- Tao còn biết thêm là áo lót có cháy đi nữa, vua cũng vẫn chưa lấy được vợ, vì sau lễ cưới, nếu cô dâu khiêu vũ thì người bỗng sẽ tái đi, rồi chết ngất. Nếu không có người nâng nàng dậy, mút ngực bên phải ra ba giọt máu, rồi nhổ ngay đi, thì nàng bị chết mất. Nhưng ai biết mà nói ra cho vua biết, thì sẽ hóa đá từ đầu đến chân.

Ba con quạ nói chuyện xong lại bay đi. Từ khi được biết hết sự việc, bác Jôhannơt buồn rầu, không nói năng gì cả. Không nói thì hại đến vua mà cho vua biết thì thiệt đến thân, Nhưng sau bác nghĩ bụng: "Ta nhất định cứu nhà vua, dù phải hy sinh tính mệnh cũng cam".

Thuyền cặp bến, sự việc xảy ra đúng như lời quạ nói. Một con ngựa hung rất đẹp nhảy tới.
Vua nói:

- Được để ta cưỡi nó về cung.

Vua chưa kịp lên ngựa thì bác Jôhannơt đã nhảy lên, rồi rút súng ở yên ra bắn chết con ngựa.
Những tên hầu khác vốn ghen ghét bác Jôhannơt nhao nhao lên:

- Nó xược quá! Dám giết con ngựa đẹp đem đến để vua cưỡi về cung.

Nhưng vua bảo chúng:

- Chúng bay im đi, "Jôhannơt trung thành" của ta làm như thế chắc là có lý do chính đáng.

Vua và Công chúa về cung thì thấy trên một cái đĩa bằng vàng có một chiếc áo lót chú rể trông tựa như là dệt bằng vàng bằng bạc. Vua định lấy áo mặc thì bác Jôhannơt đẩy vua ra, lấy áo ném vào lửa cho cháy.

Những tên hầu khác lại nhao nhao lên:

- Đấy, nó lại đốt cả cái áo lót cưới của vua.

Nhưng vua lại quở rằng:

- Jôhannơt hết sức trung thành của ta làm thế chắc có lý do, chúng bay biết đâu.

Hôn lễ đã cử hành. Cuộc khiêu vũ bắt đầu, Công chúa sắp nhảy. Bác Jôhannơt luôn luôn theo dõi nàng, bỗng thấy nàng tái đi ngã lăn ra bất tỉnh. Bác vội chạy đến nâng nàng dậy và đem về buồng đặt nàng lên giường. Rồi bác quì xuống mút ở ngực bên phải của nàng ba giọt máu, nhổ đi. Công chúa hồi lại. Vua thấy vậy không hiểu tại sao bác lại hành động như thế, nổi giận thét: "Giam nó vào ngục".

Sáng hôm sau, bác bị kết án tử hình rồi bị đưa lên giá treo cổ. Bác trèo hết bậc thang rồi nói:

- Trước khi bị xử tử, tội nhân nào cũng được phép nói, vậy thần có được phép nói không?

- Được, ta cho phép.

- Thần đã bị xử oan, thần đã luôn luôn tận tụy với bệ hạ. Rồi bác kể lại cho vua biết bác đã nghe thấy ở trên mặt bể ba con quạ nói với nhau những gì và tại sao bác đã phải làm những
việc vừa qua để cứa chúa. Vua bèn kêu lên:

- Tội nghiệp quá! Hãy tha cho Jôhannơt trung thành của trẫm. Cho bác xuống.

Nhưng bác Jôhannơt vừa nói dứt lời thì ngã lăn ra hóa đá rồi. Vua và hoàng hậu thấy thế buồn lắm. Vua nói:

- Jôhannơt đã tận tụy với ta mà ta đã nỡ xử như thế ư!

Rồi vua sai khiêng tượng Jôhannơt vào buồng ngủ, đặt bên giường mình. Mỗi lần trông thấy tượng, vua lại khóc mà nói:

- Jôhannơt trung thành ơi, ước gì ta làm cho ngươi sống lại được.

Cách đó ít lâu, hoàng hậu sinh đôi. Hai đứa con trai lớn lên là nguồn vui của mẹ. Một hôm, hoàng hậu đi lễ nhà thờ, hai con ở nhà chơi gần bố. Bố lại ngắm bức tượng thở dài và nói:

- Jôhannơt trung thành của ta ơi, ước gì ngươi sống lại.

Bức tượng bỗng lên tiếng nói:

- Bệ hạ có thể làm ta sống lại, nếu bệ hạ chịu hy sinh cái gì bệ hạ yêu quí nhất.

Vua nói:

- Trẫm sẽ vì ngươi mà hy sinh tất cả cái gì trẫm có ở trần gian.

Tượng đá nói:

- Nếu bệ hạ chịu tự tay chặt đầu hai Hoàng tử lấy máu bôi vào thần thì thần sẽ sống lại.

Nghe nói, vua rùng mình, không dám tự tay giết con. Nhưng vua lại nhớ đến ơn người bầy tôi trung thành đã vì mình mà chết, bèn rút gươm chặt đầu hai con lấy máu bôi vào tượng thì quả là tượng sống lại. Bác Jôhannơt lại khỏe mạnh tươi tắn đừng trước vua. Bác tâu với vua:

- Bệ hạ ăn ở có thủy có chung, bệ hạ được hưởng phúc.

Rồi bác cầm lấy hai cái đầu lắp vào thân hai đứa bé, bôi máu vào chỗ chặt. Hai đứa bé sống lại, chơi đùa chạy nhảy như trước. Vua mừng lắm. Khi thấy hoàng hậu về, vua giấu bác Jôhannơt và hai con vào một cái tủ lớn. Hoàng hậu bước vào nói:

- Lúc nào thiếp cũng nghĩ đến "bác Jôhannơt trung thành" đã vì chúng ta mà chịu nạn.

Vua bảo:

- Nàng có thể làm cho bác sống lại, nhưng phải chịu hy sinh hai đứa con mình.

Hoàng hậu tái mặt đi, lòng se lại, nhưng rồi đáp:

- Bác Jôhannơt đã trung thành đối với mình, mình chịu ơn bác nhiều lắm.

Vua thấy vợ mình cũng chung một ý nghĩ như mình, thích lắm, đi mở tủ cho bác Jôhannơt và hai con ra và nói:

- Lạy Chúa, bác đã được giải thoát và hai con nhỏ của mình sống lại.

Rồi vua kể cho hoàng hậu nghe sự việc vừa qua. Từ đó, vua, hoàng hậu, hai Hoàng tử và bác Jôhannơt cùng vui hưởng hạnh phúc suốt đời.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:55  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Con quỷ nhốt trong lọ


Grim



Ngày xưa có một bác tiều phu nghèo khổ. Bác luôn luôn phải làm việc từ sáng sớm đến tối mịt. Mãi rồi bác cũng dành dụm được ít tiền. Bác bảo con trai: "Con ơi, con là con một, bố muốn dành tiền này để con học hành, bố đã kiếm số tiền này bằng mồ hôi nước mắt. Con hãy học lấy một nghề lương thiện để sau này nuôi dưỡng bố khi bố già yếu, chân tay cứng đờ, không làm ăn gì được nữa, phải ngồi ở xó nhà".

Chàng thanh niên bèn xin vào một trường cấp cao và học hành rất siêng năng. Các thầy dạy khen ngợi hết lời, và anh ta học ở đó một thời gian dài. Sau đó, anh ta đã học qua nhiều trường khác. Nhưng chưa học được hết thì số tiền ít ỏi mà bố dành dụm được đã tiêu tán hết. Anh ta phải trở về nhà.

"Chà! - Ông bố nói - Bố không còn gì để cho con nữa. Ngày nay, đời sống đắt đỏ, bố không thể kiếm thêm được đồng nào ngoài tiền mua bánh mì hàng ngày."

"Thưa bố," người con trả lời, "bố đừng bận tâm đến điều đó làm gì. Con sẽ tự lo lấy."

Khi người bố vào rừng để chặt gỗ kiếm ít tiền, thì con bảo:

- Bố cho con đi cùng, con sẽ giúp bố.

- Đối với con, công việc này quá vất vả quá - bố trả lời - con chưa quen loại công việc nặng nhọc này. Con không đảm đương nổi đâu. Vả lại, bố chỉ có một cái rìu, không có tiền mua cái thứ hai

- Thì bố hãy sang nhà bác hàng xóm, - người con ngắt lời cha – bác sẽ cho bố mượn một cái rìu, cho đến khi nào con kiếm được đủ tiền mua cái mới.

Người bố sang hàng xóm mượn một cái rìu. Sớm tờ mờ hôm sau, hai bố con cùng vào rừng. Anh thanh niên làm việc giúp bố. Anh ta cảm thấy tỉnh táo và sảng khoái. Khi mặt trời mọc tới đỉnh đầu, người bố bảo:

- Chúng ta hãy nghỉ trưa và ăn một chút. Sau làm sẽ khỏe hơn.

Người con cầm lấy phần bánh và trả lời:

- Bố hãy nghỉ ngơi đi. Còn con, con chưa mệt. Con đi dạo trong rừng một chốc để tìm tổ chim.

- Thằng bé huênh hoang, - người bố càu nhàu - sao mày lại đi dạo, mày sẽ mệt và không giơ nổi cánh tay lên đâu. Hãy nghỉ ngơi ở đây, ngồi đây với tao.

Mặc dầu người bố nói thế, người con vẫn đi vào rừng sâu. Anh ta ăn bánh, tâm hồn vui vẻ, anh nhìn lên các cánh cây để tìm kiếm một cây sồi to lớn, chắc sống đã mấy trăm năm, năm người nắm tay nhau vây vòng quanh thân cây vẫn chưa kín. Anh ta dừng chân, nhìn cây sồi khổng lồ và nghĩ: chắc chắn là có nhiều chim làm tổ ở đây. Bất thình lình, anh nghe phảng phất có tiếng nói khẽ. Anh lắng tai nghe thấy "Cho tôi ra khỏi đây! Cho tôi ra khỏi đây!" Anh nhìn quanh, nhưng không thấy ai cả. Hình như tiếng nói ở dưới đất đưa lên. Anh kêu lên:

- Anh ở đâu?

Tiếng nói trả lời:

- Tôi ở đây, ở dưới này, gần rễ cây sồi. Cho tôi ra với! Cho tôi ra với!

Anh học trò sục sạo mặt đất, quanh gốc cây sồi, tìm kiếm ở các rễ cây. Bất chợt anh nhìn thấy một cái lọ thủy tinh nằm sâu trong một cái hốc nhỏ. Anh cầm lọ soi lên ánh sáng mặt trời. Anh nhìn thấy một vật giống như con nhái, nhảy nhót trong lọ. "Cho tôi ra với! Cho tôi ra với!" con vật không ngừng kêu. Không nghĩ gì đến nguy hiểm, anh học trò mở nút lọ. Lập tức con quỉ chui ra khỏi cái lọ và lớn dần, lớn dần, nhanh đến nỗi một thoáng đã trở thành một người khổng lồ kinh khủng to, bằng nửa cái cây, đứng trước mặt anh.

- Mày có biết mày sẽ được trả công cứu tao thế nào không? -Con quỉ hỏi anh với một giọng dễ sợ.

- Không - anh học trò trả lời và không cảm thấy sợ tý nào.

Con quỉ gầm lên:

- Tao sẽ đập bể đầu mày ra!

- Sao mày không bảo tao lúc nãy, – anh thanh niên nói - mày ở đâu tao sẽ để mày ở đó. Nhưng mày cũng không đập bể được đầu tao đâu. Không phải mày quyết định được một mình!

- Không quyết định được một mình! Không quyết định được một mình! - Con quỉ kêu lên - Mày tưởng thế thôi. Thế mày tưởng là vì tao tốt mà người ta nhốt tao lâu thế à, đồ ngu! Không đâu! Đấy là để trừng phạt tao! Tao là thần Macguya có uy lực. Tao phải bẻ gãy cổ kẻ nào thả tao ra.

- Này! - Anh học trò trả lời - đừng quá vội! Trước hết tao phải biết có phải đúng là mày đã ở trong cái lọ nhỏ kia không và có phải mày là con quỉ thật không. Mày lại chui được vào lọ thì tao mới tin. Sau đó thì mày tha hồ muốn làm gì tao thì làm.

Giọng đầy kiêu ngạo, con quỉ nói:

- Cái đó dễ thôi! - Nó thu nhỏ mình lại, nhỏ bé như lúc trước, nhỏ đến mức có thể lọt qua cái loa nhỏ của miệng lọ, nó lại chui vào lọ. Nó vừa chui vào thì anh học trò vội đậy nút lọ lại và vứt cái lọ xuống dưới rễ cây sồi, đúng chỗ đã tìm thấy nó. Thế là quỉ ta đã bị vào tròng. Anh con trai chuẩn bị đi về chỗ bố ngồi. Nhưng con quỉ kêu la, van nài anh: "Hãy cho tôi ra! Hãy cho tôi ra!"

- Không! - Anh học trò trả lời. - Không có một lần thứ hai đâu!

Khi cuộc sống của ta bị đe dọa, không khi nào ta lại thả kẻ thù ta ra một khi ta đã thoát nạn.

- Nếu anh cho tôi được tự do - con quỉ lại nói - tôi sẽ cho anh của cải để sống suốt đời.

- Không! - anh con trai lại nói - Mày lại đánh lừa tao như lần đầu thôi.

- Xin đừng bỏ lỡ dịp may, - con quỉ nói - tôi sẽ không hại anh đâu, tôi sẽ thưởng cho anh tiền của mà!

Anh học trò nghĩ: “Ta cứ thử xem sao. Có thể nó sẽ giữ lời hứa". Anh mở nút lọ, và cũng như lần trước, con quỉ ra khỏi cái lọ, lớn dần và trở thành khổng lồ.

- Tôi sẽ trả công anh - quỉ nói, nó đưa cho anh một cái khăn nhỏ giống như cuộn băng và nói - Nếu anh sát đầu này vào một vết thương thì vết thương sẽ lành. Nếu anh sát đầu kia vào thép hoặc sắt thì sắt thép sẽ biến thành bạc.

- Để ta thử đã, - anh học trò nói. Anh đến gần một cái cây, dùng rìu chém đứt vỏ cây ra rồi lấy một đầu khăn chà xát vào đó. Chỗ đứt liền ngay. “Đúng là thế!" anh bảo con quỉ "Giờ thì chúng ta có thể chia tay nhau". Con quỉ cảm ơn anh đã cứu thoát nó, anh học trò thì cảm ơn con quỉ về món quà và anh đi gặp bố.

- Mày đi đâu về thế? Người bố hỏi. - Tại sao mày quên cả công việc? Tao đã bảo mày không làm nên trò trống gì đâu

- Xin bố hãy bình tĩnh, con sẽ làm bù.

- Ôi, làm bù ư! - Người bố nổi giận - nói thế mà cũng nghe được!

- Bố hãy nhìn này, con sẽ chặt cây này thật mạnh cho nó đổ.

Anh lấy khăn lau lưỡi rìu và chém thật lực một nhát. Nhưng sắt đã biến thành bạc, lưỡi rìu bị mẻ. Bố nhìn này! Cái rìu bố đưa cho tồi quá, nó đã bị quằn rồi!

Người bố sợ hãi nói:

- Mày làm thế nào vậy! Sẽ phải đền cái rìu thôi. Lấy gì mà đền bây giờ? Đấy là kết quả công việc mày làm đấy!

- Xin bố đừng cáu giận, người con nói, con sẽ chi tiền cái rìu.

- Thằng này láo thật, - người bố kêu lên, - mày lấy gì mà chi nào? Ngoài số tiền tao cho ra, mày chẳng có gì cả. Mày chỉ có cái đầu ngu xuẩn của thằng học trò chẳng biết gì về công việc thợ rừng cả.

Một lúc sau, anh học trò nói:

- Bố ơi, con không làm được nữa. Bố con ta hãy nghỉ thôi!

- Sao lại thế, - người bố đáp. - Thế mày cho là tao mà lại chịu khoanh tay như mày à? Tao phải làm chứ. Còn mày thì có thể về được đấy.

- Thưa bố, con mới đến đây lần đầu tiên, con không tìm được đường về một mình. Bố hãy về với con.

Người bố lúc đó đã nguôi giận, cùng con ra về. Ông bảo con:

- Hãy bán cái rìu hỏng đi. Để xem mày bán được bao nhiêu. Còn thiếu bao nhiêu thì tao phải bù vào trả bác hàng xóm.

Người con mang lưỡi rìu đến cửa hàng vàng bạc ở đô thị. Ông chủ cân lưỡi rìu rồi nói:

- Lưỡi rìu này giá bốn trăm đồng. Nhưng tôi không có đủ tiền mặt.

- Có bao nhiêu thì ông đưa tôi, chỗ còn lại ông trả tôi sau. - Anh thanh niên trả lời. Ông chủ hiệu vàng bạc đưa trả anh ba trăm đồng và hẹn sẽ trả một trăm đồng nợ sau.

Anh học trò về nhà nói:

- Bố ơi, tiền đây. Bố hãy chạy sang bác hàng xóm hỏi xem bác bắt đền cái rìu bao nhiêu tiền.

- Tao biết rồi, - người bố nói: một đồng và sáu xu!

- Vậy thì bố hãy trả bác ấy hai đồng một hào hai. Trả gấp đôi thế là được quá rồi. Bố nhìn này, con có tiền thừa thãi. - Anh đưa cho bố một trăm đồng và nói: - Bố sẽ không bao giờ thiếu tiền nữa! Bố cứ sống thoải mái đi!

- Trời ơi! Người bố kêu lên: làm thế nào mà mày có nhiều tiền thế?

Anh học trò đã kể cho bố nghe sự việc đã xảy ra làm sao, nhờ gặp may mà anh được giàu có. Với số tiền còn lại, anh trở lại trường và tiếp tục học. Anh dùng cái khăn chữa được mọi vết thương, và trở thành thầy thuốc lừng danh thiên hạ.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:56  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Cô bé hai mắt



Grim



Ngày xưa, có một bà có ba cô con gái. Con lớn tên là Một Mắt vì cô chỉ có độc một mắt ở giữa trán. Cô thứ hai tên là Hai Mắt vì cô có hai mắt như mọi người khác. Cô út tên là Ba Mắt vì cô có ba mắt, mắt thứ ba cũng ở giữa trán.

Cô Hai Mắt giống y như những người thường khác nên bị mẹ, chị và em không chịu được. Họ bảo cô:

- Có hai mắt thì cũng chẳng hơn gì người thường, không phải là họ hàng nhà ta.

Họ thấy cô đâu là xua đấy, quẳng cho cô quần áo xấu xí, chỉ cho cô thức ăn thừa, tìm đủ cách làm cho cô đau khổ. Có lần cô Hai Mắt ra đồng chăn dê, đói lắm vì chị và em cho ăn ít quá. Cô liền ngồi xuống bờ ruộng khóc lóc thảm thiết, nước mắt tuôn ra như hai dòng suối nhỏ. Đang than vãn, cô ngẩng lên thấy một bà đứng bên mình hỏi:

- Hai Mắt, sao con lại khóc?

Hai Mắt trả lời:

- Con không khóc sao được? Chỉ vì con có hai mắt như người bình thường, mẹ, chị và em không chịu được, xua con từ xó này sang xó khác, quăng cho con quần áo cũ, chỉ cho con ăn cơm thừa canh cặn. Hôm nay ở nhà cho con ăn ít quá, con đói lắm.

Bà lão bảo:

- Hai Mắt, con hãy lau mặt đi, bà sẽ bảo con cái này để con không bị đói nữa. Con cứ việc bảo con dê cái của con:

Này dê con, hãy be lên!
Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!
Thì lập tức trước mắt con sẽ hiện ra một cái bàn xinh xắn, ở trên bày các thức ăn ngon lành, con tha hồ ăn. Sau khi con ăn no rồi, không cần đến bàn nữa, thì con chỉ việc nói:

Này dê con, hãy be be!
Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!
Thì bàn lập tức sẽ biến mất.


Sau đó, bà lão đi. Hai Mắt nghĩ bụng: "Mình phải thử ngay xem lời bà dặn có đúng không vì mình đói quá". Cô nói:

Này dê con, hãy be lên!
Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!


Nói chưa dứt lời, thì có một chiếc bàn xinh xắn phủ chiếc khăn nhỏ trắng tinh hiện ra. Trên bàn có đĩa, dao, dĩa, thìa bạc, đầy các thức ăn tuyệt ngon còn nóng, hơi lên nghi ngút như vừa bưng ở dưới bếp lên. Hai Mắt ăn uống ngon lành. No nê rồi, cô lại nói như lời bà lão dặn:


Này dê con, hãy be be!
Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!


Lập tức chiếc bàn xinh xắn và các thứ ở trên biến mất. Hai Mắt nghĩ bụng làm nội trợ kiểu ấy thật thú vị, cô hả hê vui thích lắm. Buổi tối, cô chăn dê về nhà, thấy có chiếc bát sành đựng thức ăn mà chị và em để phần cho, nhưng cô không đụng đến. Ngày hôm sau cô lại chăn dê đi, để nguyên mấy mẩu bánh phần cô. Lần đầu và lần thứ hai, chị và em không để ý, nhưng cứ thế mãi nên họ cũng biết và nói:


- Con Hai Mắt có điều gì khả nghi. Không lần nào nó đụng đến thức ăn, thế mà mọi khi để cho nó cái gì là nó chén hết sạch cơ mà. Phải tìm cho ra đầu đuôi việc này mời được.


Khi Hai Mắt ra đi. Một Mắt đến bảo:

- Để tao đi ra đồng với, xem mày chăn dê có tốt không, mày có chịu đưa dê đi ăn ở nơi tốt cỏ không.


Nhưng Hai Mắt đã biết được ý định của Một Mắt, cô chăn dê đến đồng cỏ rậm và bảo:


- Chị Một Mắt ạ, chị em mình ngồi xuống rồi em hát cho chị nghe.


Một Mắt ngồi xuống, mệt quá vì chưa quen đi đường và vì trời nắng chang chang, còn Hai Mắt cứ hát mãi:


Một Mắt ơi, chị còn thức không?
Một Mắt ơi, chị ngủ đấy à?
Một Mắt nhắm mắt độc nhất của mình lại mà ngủ.

Lúc Hai Mắt thấy Một Mắt đã ngủ say, việc không thể lộ được, cô mới bảo:

Này dê con, hãy be lên!
Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!


Cô ngồi vào chiếc bàn xinh xắn, ăn uống no nê rồi lại nói:


Này dê con, hãy be be!
Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!


Tất cả mọi thứ đều biến ngay. Hai Mắt liền đánh thức Một Mắt dậy mà bảo:


- Chị Một Mắt ạ, chị định đi chăn dê mà lại ngủ à? Trong khi đó dê nó có thể chạy khắp thiên hạ mất. Thôi ta về nhà chị ơi.


Hai người về nhà. Hai Mắt để nguyên không đụng đến thức ăn. Một Mắt không cho mẹ biết được tại sao em không chịu ăn. Nó xin lỗi mẹ:


- Con ra đồng ngủ quên đi mất.


Hôm sau, mẹ bảo Ba Mắt:


- Lần này, mày đi cùng phải để ý xem con Hai Mắt ra ngoài có ăn gì không, có ai mang gì đến cho nó ăn uống không, vì nhất định là nó phải ăn uống lén lút.


Ba Mắt đến bảo Hai Mắt:


- Em muốn đi với chị để xem chị chăn dê có tốt không, chị có đưa dê đi ăn nơi tốt cỏ không?


Nhưng Hai Mắt đỗán được ý định của Ba Mắt nên cô chăn dê đến đồng cỏ rậm rồi bảo:


- Em Ba Mắt ạ, ta ngồi đây. Chị sẽ hát cho em nghe.


Ba Mắt ngồi xuống. Đường xa, trời nắng, nên người mệt nhoài. Hai Mắt lại bắt đầu hát bài hát hôm trước:

Ba Mắt ơi, thức đấy ư?


Nhưng sau đáng lẽ phải hát: Ba Mắt ơi, ngủ đấy à? Thì cô lại đãng trí hát: Hai Mắt ơi, ngủ đấy à?


Rồi cứ hát mãi:


Ba Mắt ơi, thức đấy ư?
Hai Mắt ơi, ngủ đấy à?


Hai con mắt của Ba Mắt nhắm lại ngủ, còn con mắt thứ ba không bị phép của câu thần chú nên không ngủ. Thật ra thì Ba Mắt nhắm cả mắt thứ ba, nhưng nó nhắm giả vờ làm như ngủ, nó nhấp nháy để có thể nhìn rõ được hết mọi việc. Hai Mắt tưởng là Ba Mắt đã ngủ say rồi, liền niệm chú:


Này dê con, hãy be lên!
Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!


Cô ăn uống no nê rồi bảo chiếc bàn nhỏ biến đi:


Này dê con, hãy be be!
Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!


Ba Mắt trông thấy hết. Hai Mắt đến chỗ nó đánh thức dậy bảo:

- Úi chà. Ba Mắt em ngủ à? Thế mà cũng đòi đi chăn dê? Thôi ta về nhà đi!


Về đến nhà, Hai Mắt lại không ăn. Ba Mắt liền mách mẹ:


- Giờ thì con biết tại sao cái con làm bộ ấy nó không ăn rồi. Ở ngoài đồng nó nói "Này dê con, hãy be lên! Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!" thì có một chiếc bàn nhỏ bày đầy thức ăn, thức uống tuyệt ngon, ngon hơn ở nhà ta nhiều, hiện ra. Nó ăn uống no nê rồi
nó bảo: "Này dê con, hãy be be! Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!" thì mọi thứ đều biến mất. Con trông thấy tất cả rõ mồn một. Hai mắt nó niệm thần chú cho con ngủ, nhưng may còn con mắt trên trán vẫn thức.

Người mẹ đố kỵ liền kêu lên:


- A, mày lại đòi hơn chúng tao à! Phải cho mày chừa cái thói ấy đi!


Mụ lấy dao mổ lợn, đâm trúng tim dê, dê khuỵu xuống chết. Hai Mắt thấy vậy, buồn bã đi ra ngồi bờ ruộng khóc lóc thảm thiết. Bà lão bỗng lại hiện ra bên cô mà bảo:


- Hai Mắt làm sao con khóc?


Cô đáp:


- Con không khóc sao được! Mẹ con đã đâm mất con dê mà hàng ngày, khi con niệm câu thần chú của bà, nó dọn thức ăn thật ngon cho con ra bàn. Giờ thì con lại phải chịu đói khát, khổ sở rồi.


Bà lão bảo:


- Hai Mắt ạ! Để bà bày cho con một kế hay: con hãy xin chị và em lấy bộ lông của con dê đã bị giết, con đem chôn ở trước cửa rồi sẽ gặp may.


Nói xong bà lão biến mất. Hai Mắt về nhà bảo chị và em:


- Chị và em yêu dấu ơi, dê ấy của tôi, cho tôi xin chút đỉnh của nó với. Tôi chẳng dám xin gì ngon lành đâu, chỉ xin bộ lông mà thôi.


Hai đứa cười ồ lên bảo:


- Ừ, nếu chỉ xin có thế thì cứ việc mà lấy đi.


Hai Mắt lấy bộ lông, đến tối theo lời bà lão dặn lặng leo đem chôn trước cửa nhà.
Sáng hôm sau, khi cả nhà cùng dậy ra cửa thì thấy có một cây kỳ lạ, đẹp lộng lẫy, quả vàng xen giữa lá bạc, trần gian không có gì đẹp bằng. Không ai biết tại sao qua một đêm, cây ở đâu mọc ra. Chỉ có Hai Mắt biết rõ là cây ở lông dê mọc lên vì nó mọc đúng ở nơi
chôn bộ lông.


Mẹ liền bảo :


- Một Mắt, con trèo lên hái quả xuống.


Một Mắt trèo lên, nhưng cứ định hái một quả táo vàng thì cành lại tuột khỏi tay. Mà lần nào cũng như vậy, khiến cho nó không hái được quả nào, hái mãi cũng không được.


Mẹ liền bảo:


- Ba Mắt, con hãy trèo lên, con có ba mắt, ắt là nhìn rõ hơn Một Mắt.


Một Mắt tụt xuống. Ba Mắt trèo lên. Nhưng Ba Mắt cũng chẳng tài gì hơn, với mãi mà vẫn cứ bị hụt, táo vàng vẫn cứ thụt lại. Sau bà mẹ sốt ruột, đích thân trèo cây, nhưng định hái quả thì lại chỉ nắm không khí, chẳng hơn Một Mắt và Ba Mắt.


Hai Mắt liền bảo:


- Để tôi lên xem sao, có thể là được.


Chị và em gái nói:


- Đồ Hai Mắt thì làm được trò trống gì!


Nhưng khi Hai Mắt trèo lên, táo vàng không thụt lại, mà tự ý rơi vào tay cô, cô hái được hết quả nọ đến quả kia, mang xuống đấy một tạp dề. Bà mẹ giật lấy. Đáng lẽ, mụ, Một Mắt và Ba Mắt phải đối đãi tử tế hơn với cô Hai Mắt đáng thương, thì họ lại đố kỵ thêm
vì chỉ có mình cô hái được quả vàng. Họ đối với cô càng thêm cay nghiệt. Một hôm, họ đang đứng bên cây thì có một hiệp sĩ trẻ tuổi đi tới. Cô chị và cô em gọi:


- Hai Mắt ơi, nhanh lên, trèo xuống đi kẻo chúng tao ngượng cả mặt vì mày.


Rồi hai người vớ vội một chiếc thùng rỗng để ở ngay gốc cây úp lên cô Hai Mắt đáng thương. Chúng lại nhét tất cả táo vàng mà cô hái được vào trong đó. Hiệp sĩ đến nơi. Ấy là một nhà quí phái rất đẹp. Chàng ngừng lại ngắm cây táo vàng lộng lẫy và bảo cô chị và
cô em:


- Cây đẹp này của ai? Cho ta một cánh thì muốn xin gì ta cũng cho.


Một Mắt và Ba Mắt vội đáp là cây của chúng, chúng sẵn sàng bẻ cho chàng một cành. Hai chị em ra sức bẻ nhưng lần nào cành và quả cũng thụt lại.


Chàng hiệp sĩ liền bảo:


- Quái lạ, sao cây của các cô mà các cô lại không hái được?

Chúng vẫn khăng khăng nói là cây của chúng. Trong khi ấy, Hai Mắt ở dưới thùng để mấy quả táo vàng lăn đến chân hiệp sĩ vì nàng bực tức là Một Mắt và Ba Mắt lại không chịu nói thật. Hiệp sĩ thấy táo, ngạc nhiên hỏi táo từ đâu đến. Một Mắt và Ba Mắt đáp chúng còn một người chị em, không dám để cho ra mắt vì cô cũng chỉ có hai mắt như những người thường khác. Nhưng hiệp sĩ đòi xem mặt cô và gọi:


- Cô Hai Mắt đâu, lại đây nào!


Hai Mắt bình tĩnh chui ở dưới thùng ra. Hiệp sĩ ngạc nhiên về sắc đẹp của cô, hỏi:


- Chắc cô Hai Mắt bẻ được cho tôi một cành chứ!


Hai Mắt đáp:


- Thưa vâng, hẳn là được, vì cây của em.


Cô trèo lên cây, nhẹ nhàng bẻ một cành có lá bạc quả vàng thật đẹp đưa cho hiệp sĩ.
Hiệp sĩ liền bảo:


- Cô Hai Mắt ơi, tôi trả công cô thế nào đây?


Hai Mắt đáp:


- Từ sáng tinh mơ đến tối mịt, em chịu đói khát, cơ cực, buồn lo, nếu chàng chịu mang em đi để cứu em thì em thật là sung sướng.

Hiệp sĩ liền đỡ Hai Mắt lên ngựa, mang về lâu đài cha. Tới nơi, chàng cho cô mặc quần áo đẹp đẽ, tha hồ ăn uống. Chàng yêu cô và lấy cô làm vợ ... Lễ cưới rất vui vẻ. Khi chàng hiệp sĩ đẹp trai mang Hai Mắt đi rồi, chị và em lồng lên vì thấy cô sung sướng. Hai cô nghĩ bụng: Cây thần còn ở tay ta, dù ta không hái được quả nào, thì mọi người vẫn cứ phải ngừng lại, ngắm cây, vào tìm ta để khen cây. Biết đâu rồi ta chẳng gặp may.

Nhưng sáng hôm sau, cây thần bỗng biến mất, hy vọng của hai chị em cũng tiêu tan. Khi Hai Mắt từ trong phòng nhỏ nhìn ra, cô mừng rỡ thấy cây đã theo cô và hiện lên. Cô Hai Mắt hưởng hạnh phúc lâu dài. Một hôm, có hai người đàn bà nghèo khó đến lâu đài cô xin ăn. Cô Hai Mắt nhận ra chị và em mình. Một Mắt và Ba Mắt bị sa sút, nghèo túng, phải đi tha phương cầu thực. Cô Hai Mắt niềm nở chào hai người, đối đãi tốt với họ, chăm sóc họ, khiến họ hối hận, vì đã từng đối xử độc ác với cô.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 10:58  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Ngôi nhà trong rừng




Grim



Có một bác tiều phu nghèo sống với vợ và ba con gái trong túp lều nhỏ ven một khu rừng hẻo lánh. Một buổi sớm, lúc sắp đi làm bác dặn vợ: "Trưa nay mình để đứa lớn mang thức ăn vào rừng cho ta nhé, tôi về sợ làm không hết việc". Bác nói thêm: "Để nó khỏi lạc, tôi sẽ đem theo một túi kê rải dọc lối đi".

Mặt trời vừa lên tới giữa đỉnh đầu, cô con gái lớn xách một liễn cháo đầy lên đường. Nhưng lũ sẻ đồng và sẻ rừng, lũ sơn ca và họa mi, lũ sáo sậu và phù dung đã nhặt hết các hạt kê từ lâu rồi, cô bé không thể nào tìm được dấu hướng đường nữa. Cô cứ liều đi, mãi cho tới khi mặt trời đã lặn và đêm xuống nghe cây cối rì rào trong bóng tối, lại nghe tiếng cú rúc, cô bắt đầu sợ. Chợt cô thấy phía xa có ánh đèn lấp ló sau hàng cây. Cô nghĩ bụng chắc là ở đó có người, mình có thể tới xin ngủ được. Cô đi về phía ánh đèn. Chỉ một lúc sau, cô đã tới một ngôi nhà, cửa sổ có ánh đèn. Cô gõ cửa. Một giọng khàn khàn từ trong nói ra: "Cứ vào". Cô bước lên nền nhà tối mò gõ cửa. "Cứ vào đi". Lại có tiếng gọi. Cô mở cửa thấy một ông già tóc hoa râm ngồi bên bàn, đầu đặt lên hai bàn tay, chòm râu bạc rải qua mặt bàn gần đến đất. Lại có ba con vật đang nằm bên lò sưởi: một con gà mái, một con gà trống và một con bò sữa có bộ lông đốm sặc sỡ. Cô bé kể cho ông cụ nghe chuyện của mình và xin ngủ nhờ một đêm. Ông cụ quay lại hỏi mấy con vật:

Ới gà mái!
Ới gà trống!
Ới bò hoa lông đốm!
Chúng mày nghĩ sao?

"Được", mấy con vật đồng thanh trả, như thế là chúng mày đã bằng lòng. Ông cụ bảo: "Ở đây chẳng thiếu một thứ gì, con hãy xuống bếp nấu bữa ăn tối cho chúng ta đi".

Cô bé xuống bếp, thấy quả là thứ gì cũng thừa thãi. Cô nấu bữa ăn thật ngon, song quên khuấy mất mấy con vật. Cô bưng lên dọn trên bàn một bàn đầy rồi ngồi vào cùng ăn với ông cụ cho đỡ đói lòng. Ăn xong cô hỏi: "Con mệt lắm, giờ chỉ muốn nằm ngủ, giường ở đâu xin cụ chỉ giùm".

Mấy con vật đồng thanh đáp:

Cô đã ăn với cụ ấy,
Cô đã uống với cụ ấy,
Cô chẳng đoái tới bọn này
Giờ ngủ đâu, cô liệu lấy.

Ông cụ bảo cô bé: "Con cứ lên gác, sẽ thấy một cái phòng có hai cái giường, trải khăn trắng, ta cũng buồn ngủ rồi đây".

Cô bé trèo lên, giũ giường trải khăn xong, cô nằm quay ra ngủ không đợi ông già. Một lát sau ông cụ cũng lên soi đèn thấy cô đã ngủ say rồi, ông cụ lắc đầu, mở luôn một cái cửa hầm cho cô bé rơi xuống đó. Mãi hôm sau, bác tiều phu mới về nhà. Bác mắng bác gái đã để bác phải nhịn đói suốt ngày. Bác gái phân trần: "Có phải tại tôi đâu, con bé lớn đem bữa trưa cho mình. Chắc hẳn nó lạc đâu rồi, mai nó về".

Hôm sau trời chưa sáng, bác tiều phu đã dậy để lại đi rừng: bác dặn vợ để con gái thứ hai mang bữa trưa vào rừng cho bác. "Tôi sẽ đem theo một túi đỗ. Hột đỗ nhỉnh hơn hạt kê, dễ thấy hơn, không sợ con lạc nữa".

Đến trưa cô thứ hai đem bữa đến chỗ bố. Song cũng như ngày hôm trước, đỗ đã bị chim rừng ăn sạch rồi. Cô bé đi loanh quanh trong rừng, tối hôm đó cô cũng tới căn nhà có ông cụ râu bạc. Cô cũng xin ăn và xin trọ. Ông cụ quay lại hỏi ba con vật:

Ới gà mái!
Ới gà trống!
Ới bò hoa lông đốm!
Chúng mày nghĩ sao?

Ba con vật đồng thanh trả lời: "Được!". Mọi việc sau đó lại xảy ra hệt như hôm trước. Cô bé nấu một bữa ăn ngon, cùng ngồi ăn uống với ông cụ, song không đoái hoài gì tới ba con vật. Đến lúc cô hỏi chỗ ngủ. Ba con vật đồng thanh đáp:

Cô đã ăn với cụ ấy,
Cô đã uống với cụ ấy,
Cô chẳng đoái tới bọn này
Giờ ngủ đâu, cô liệu lấy.

Sau khi cô ngủ rồi, ông cụ lên nhìn cô lắc đầu. Ông cụ cũng cho cô tụt xuống hầm như cô chị.
Sáng hôm sau, bác tiều phu dặn vợ: "Bữa nay mình để con bé út nó mang cái ăn cho tôi vậy. Con bé biết vâng lời, nó sẽ đi đến nơi về đến chốn, chẳng giống như các chị nó đâu! Hai đứa ấy cứ như mấy con ong dại, suốt ngày bay nhởn nhơ".

Bác gái không ưng nên hỏi lại: "Thế lại muốn mất nốt cả đứa con gái tôi cưng nhất hay sao?".
Bác trai đáp: "Mình đừng lo, con bé ấy thông minh và rất khôn, nó sẽ không lạc đâu. Vả bữa nay tôi đem đỗ Hà Lan đi kia mà. Giống đỗ này to hơn giống đỗ thường, mất dấu đường sao được!".

Nhưng đến lúc con bé con mang làn đi thì dọc đường có bao nhiêu hột đỗ đậu đều vào diều lũ gà rừng cả rồi. Cô chẳng còn biết đường đi lối nào nữa. Cô bé con lo lắng, cô lo bố đói, lo không về thì mẹ sẽ than vãn. Tối đến, thấy có ánh đèn, cô theo hướng đó lần tới. Cô nói rất lễ
phép, xin ngủ nhờ một đêm. Ông cụ già râu bạc quay lại hỏi mấy con vật:

Ới gà mái!
Ới gà trống!
Ới bò hoa lông đốm!
Chúng mày nghĩ sao?

"Được", chúng đồng thanh trả lời. Cô bé bước ngay tới lò sưởi chỗ mấy con vật nằm, khẽ vuốt ve bộ lông óng mượt của hai con gà, rồi lại xoa đầu con bò lông đốm. Sau đó theo lời ông cụ dặn, cô đi nấu ăn. Nấu xong, bưng bát ra bàn đâu đấy. Cô tự hỏi: "Mình no mà để mấy con vật khôn ngoan kia nhịn đói có đành lòng không? Ngoài ấy thiếu gì thức ăn phải cho chúng ăn no cái đã".

Cô đi lấy lúa mạch rắc cho hai con gà ăn và đi bê vào cho con bò cả một ôm rơm ngát mùi thơm. Cô trìu mếm nói với mấy con vật: "Chúc các bạn ăn ngon nhé. Nếu khát, tôi sẽ lại đi kiếm nước mát về cho mà uống". Nói đoạn, cô đi xách một thùng nước đầy. Hai con gà nhảy lên mép thùng, chúng cứ nhúng mỏ xuống nước, rồi lại vươn cổ lên một hồi, uống như giống chim thường làm. Còn bò ta làm thẳng một hơi ra trò. Cho mấy con vật ăn uống no nê rồi, cô bé mới lại ngồi vào bàn ăn nốt những thức ăn ông cụ còn bỏ thừa lại. Một lúc sau, đôi gà bắt đầu rúc đầu dưới cánh. Bò cũng chớp mắt liên hồi. Cô bé liền hỏi:

Giờ ta đi ngủ rồi chứ nhỉ?
Phải không, gà mái
Phải không, gà trống
Phải không, bò lông đốm
Có đúng thế không?

Mấy con vật đồng thanh đáp:

Đúng, cô đã ăn với bọn tôi,
Cô đã uống với bọn tôi.
Cô đã không quên bọn tôi.
Đêm nay chúc cô ngon giấc.

Cô bé trèo lên gác, giũ gối, trải khăn đâu đấy chờ cho ông cụ đi nằm, chòm râu bạc dài chấm chân, rồi cô mới lên giường ngủ. Ngủ được một giấc ngon đến nửa đêm bỗng thấy nhà cửa tự lay chuyển, cô tỉnh dậy. Cả bốn góc nhà bắt đầu chuyển răng rắc, cánh cửa lớn cứ sập vào rồi lại tự mở ra đập sầm sầm vào tường. Xà nhà như muốn rơi, gác như muốn đổ. Sau đó, dường như cả mái nhà muốn sập. Rồi lại thấy yên tĩnh, cô bé thấy mình chẳng việc gì nên cứ nằm yên và ngủ lại. Sớm ngày hôm sau, cô tỉnh dậy trong ánh nắng tươi sáng, và lạ chưa, cô thấy mình đang nằm trong một căn phòng lớn, quang cảnh xung quanh vô cùng lộng lẫy. Tường bọc toàn bằng lụa mầu lá cây, làm nền cho những cụm hoa vàng thật. Giường nằm bằng ngà, chăn bọc nhung đỏ. Cạnh giường có một cái ghế trên xếp một đôi hài thêu điểm trân châu. Cô cứ ngỡ mình nằm mơ. Nhưng kìa đã thấy ba người hầu ăn mặc rất sang: Họ bảo cô có sai bảo gì không. Cô bảo họ: "Các bác cứ ra đi, tôi sẽ dậy ngay đây. Cứ để tôi nấu cháo cho ông cụ xong tôi sẽ cho gà, cho bò lông đốm ăn sau". Cô nghĩ bụng chắc ông cụ dậy rồi. Cô ngoảnh sang giường bên xem sao nhưng không thấy ông cụ mà lại thấy một người lạ, trẻ, đẹp. Cô đang ngắm nghía thì người ấy đã trở dậy bảo cô:

- Ta chính là một Hoàng tử đã bị một con mụ phù thủy hiểm độc phù phép hãm hại. Nó đã biến ta thành một ông già tóc bạc, đẩy ta ở giữa rừng sâu với ba người hầu cũng đã bị nó biến thành một con gà mái, một con gà trống và một con bò sữa. Phép yêu ấy chỉ được giải khi nào có một người con gái tốt bụng tới đây, không những biết thương người mà biết thương cả giống vật. Người con gái đó là nàng. Nửa đêm hôm qua, nàng đã giải thoát cho bọn ta, ngôi nhà cổ giữa rừng đã thành nguyên hình là cung điện của ta trước kia.

Đợi cô dậy rồi, Hoàng tử sai ba người hầu đi mời bố mẹ đến để làm lễ cưới.

Cô hỏi:

- Nhưng hai chị của thiếp hiện giờ ở đâu?

- Ta đã giam hai cô đó xuống hầm. Mai ta sẽ giải vào rừng. Họ sẽ phải hầu hạ một người đốt than ở đó cho tới khi nào họ biết sửa lỗi, biết thương yêu súc vật, không để chúng khỏi đói khát.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:00  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Lọ lem


Grim




Có lần, bố đi chợ phiên hỏi hai con của vợ kế muốn xin quà gì. Một cô xin quần áo đẹp, một cô xin ngọc. Bố lại hỏi:

- Thế Lọ lem con muốn gì nào?

- Thưa bố, trên đường về, có cành cây nào va vào mũ bố thì xin bố bẻ cho con.

Bố mua về cho hai con vợ kế quần áo đẹp và ngọc. Trên đường về, khi đi qua một bụi cây xanh, có cành cây dẻ va phải ông và lật mũ ông. Ông bẻ cành ấy mang về. Tới nhà, ông cho hai con của vợ kế quà chúng xin và đưa cành dẻ cho Lọ lem. Lọ lem cảm ơn bố, đến mộ mẹ trồng cành dẻ lên, khóc lóc thảm thiết, nước mắt rơi xuống tưới ướt hết cành lá. Cành lớn rất mau thành một cây đẹp. Mỗi ngày, Lọ lem đến đó ba lần, lần nào cũng có con chim trắng tới đậu trên cây. Hễ cô ngỏ ý mong ước thứ gì thì chim vứt thứ ấy xuống cho cô.

Một hôm, nhà vua mở hội ba ngày liền, mời tất cả các thiếu nữ xinh đẹp trong nước đến để Hoàng tử kén vợ. Hai cô con vợ kế nghe nói là mình cũng được đi thì mừng mừng rỡ gọi Lọ lem đến bảo:

- Mày hãy chải đầu đánh giày cho chúng tao, cài giày cho chắc để chúng tao đi cho chắc để chúng tao đi lễ cưới ở cung vua.

Lọ lem khóc lóc vâng lời, vì chính nó cũng muốn được đi cùng để nhảy. Nó xin mẹ kế cho đi. Mẹ kế bảo:

- Đồ Lọ lem bẩn thỉu nhơ nhuốc mà cũng đòi đi dự hội à! Mày làm gì có giày, có quần áo đâu mà nhảy?

Nó xin mãi thì mẹ kế bảo:

- Tao đổ một đấu đỗ xuống tro. Cho mày nhặt hai tiếng đồng hồ, xong thì đi.

Cô đi cửa sau vườn gọi:

- Hỡi chim câu ngoan ngoãn, hỡi chim gáy, hỡi tất cả các chim trên trời, hãy lại đây nhặt giúp em, đỗ ngon thì bỏ vào nồi, đỗ xấu thì bỏ vào cổ họng.

Lập tức có đôi chim bồ câu trắng bay qua cửa sổ nhà bếp vào, theo sau có chim gáy, rồi đến tất cả các chim trên trời rào rào bay tới đậu xuống quanh đống tro. Chim bồ câu gật gù rồi bắt đầu mổ lia lịa, những chim khác cũng mổ lia mổ lịa, nhặt đỗ tốt bỏ vào nồi. Chỉ non nửa tiếng đồng hồ, chim đã làm xong xuôi cả và bay đi. Cô gái mang đỗ đến cho gì ghẻ, chắc mẩm được đi dự hội. Nhưng gì ghẻ bảo:

- Toi công thôi, Lọ lem ạ! Mày không đi cùng được đâu vì mày làm gì có quần áo mà nhảy? Chẳng nhẽ làm chúng tao xấu mặt vì quần áo của mày à?

Nói rồi, mụ quay phắt đi, vội vã cùng hai đứa con gái đài các ra đi.

Ở nhà không có ai, Lọ lem ra mộ mẹ, đến gốc cây dẻ gọi:

- Cây ơi, cây hãy rũ vàng rũ bạc xuống đây cho em.

Chim liền ném xuống cho cô một chiếc áo bằng vàng bằng bạc và một đôi hài lụa thêu chỉ bạc. Cô vội mặc quần áo vào đi dự hội. Dì ghẻ và hai em không nhận được ra cô, tưởng là một nàng công chúa nào xa lạ vì cô mặc áo vàng trông đẹp lộng lẫy. Chúng không ngờ chút nào đó là Lọ lem, đinh ninh là cô vẫn lúi húi nhặt đỗ trong đống tro. Hoàng tử lại đón cô, cầm tay cô nhảy. Chàng không muốn nhảy với ai khác nữa, và không chịu rời tay cô ra. Có ai đến mời cô
nhảy thì chàng nói:

- Đây là bạn nhảy cùng tôi.

Cô nhảy đến tối thì xin về. Hoàng tử ngỏ ý muốn đưa cô về vì chàng muốn biết cô thiếu nữ xinh đẹp này là con cái nhà ai. Cô gỡ tay Hoàng tử ra và nhảy vào chuồng bồ câu. Hoàng tử đợi đến khi ông bố đến liền bảo cô gái lạ mặt đã nhảy biến mất vào chuồng bồ câu. Ông cụ nghĩ: phải chăng là Lọ lem?

Cụ bắt mang đến cho cụ rìu và mai để cụ chẻ tan chuồng ra. Chẻ xong chẳng thấy có ai ở trong. Họ về nhà thì thấy Lọ lem mặc quần áo nhem nhuốc ngồi trong đống tro, một ngọn đèn dầu tù mù cháy trên lò sưởi. Thì ra Lọ lem đã nhảy phắt ra khỏi chuồng bồ câu, chạy vội đến cây dẻ, cởi quần áo đẹp ra để trên mộ. Chim xuống cất đi ngay. Rồi cô lại mặc quần áo xám xì vào, ngồi trên đống tro trong bếp như cũ.

Hôm sau, hội lại tiếp tục. Bố mẹ và hai em đi khỏi, Lọ lem lại đến cây dẻ gọi:

- Cây ơi, hãy rũ vàng rũ bạc xuống đây cho em.

Chim lại thả xuống một bộ quần áo lộng lẫy hơn hôm trước. Cô mặc quần áo ấy đến dự lễ. Cô đẹp quá, làm mọi người ngẩn người ra. Hoàng tử đã đợi cô, liền cầm tay cô và chỉ nhảy với cô thôi. Các người khác đến mời cô nhảy thì Hoàng tử bảo: "Đây là bạn nhảy của tôi". Đến tối, cô xin về, Hoàng tử đi theo xem cô đến nhà nào, cô vội gạt Hoàng tử ra chạy vào vườn sau nhà. ở đấy có một cây lê to rất đẹp, chi chít những quả ngon lành. Cô trèo lên nhanh như sóc rồi đi
đâu mất. Hoàng tử đợi đến khi ông bố đến bảo:

- Cô gái lạ mặt đã đánh tháo khỏi tay ta. Có leo cô ấy nhảy lên cây lê rồi.

Ông bố nghĩ: - Phải chăng là Lọ lem!

Ông cho mang rìu đến, đẵn cây xuống, nhưng chẳng có ai trên cây.

Cả nhà vào bếp thì thấy Lọ lem nằm trong đống tro như không có việc gì xảy ra. Thì ra cô đã nhảy từ phía bên kia cây xuống, đem trả quần áo đẹp cho chim trên cây dẻ và mặc quần áo xám xì vào. Đến ngày thứ ba, bố mẹ và các em đi khỏi, Lọ lem lại ra mộ mẹ bảo cây:

- Cây ơi, cây hãy rũ vàng rũ bạc xuống đây cho em.

Chim liền nhả xuống một bộ quần áo lộng lẫy nhất đời và một đôi hài toàn bằng vàng. Khi cô mặc vào đi dự lễ, mọi người cứ thần người ra nhìn. Hoàng tử chỉ nhảy với cô, có ai mời cô nhảy thì chàng nói: - Đây là bạn nhảy của tôi.

Đến tối, Lọ lem xin về. Hoàng tử định đưa về, nhưng cô lẩn nhanh như cắt, Hoàng tử đã nghĩ ra một mẹo là cho đổ nhựa thông lên thang. Khi cô nhảy đi thì chiếc giày bên trái dính lại. Hoàng tử cầm lên thì thấy chiếc hài xinh đẹp toàn bằng vàng. Hôm sau, Hoàng tử mang hài đến tìm ông bố bảo:

- Ta chỉ lấy ai chân đi vừa chiếc hài này thôi.

Hai chị có đôi chân đẹp nên mừng lắm. Cô cả mang giày vào buồng thử trước mặt mẹ. Nhưng cô không đút ngón chân cái vào được vì hài nhỏ quá. Mẹ liền đưa cho cô con dao bảo:

- Mày cứ chặt ngón cái đi. Mày thành hoàng hậu rồi thì cần gì đi bộ nữa.

Cô ta liền chặt ngón cái, nhét chân vào hài rồi cắn răng chịu đau, đến ra mắt hoàng tử. Hoàng tử nhận cô làm vợ đặt lên ngựa cùng về. Khi đi qua mộ thì đôi chim câu đậu trên cây dẻ kêu lên:

Cúc cu cu!
Hoàng tử nhìn xem
Chiếc hài vấy máu.
Vì chân dài quá
Nên phải chặt chân
Chính cô dâu thật
Vẫn ở trong nhà!


Hoàng tử nhìn xuống chân cô thấy máu chảy, liền quay ngựa lại, đưa cô về nhà trả lại cho bố mẹ cô. Hoàng tử bảo không đúng là cô dâu thật, rồi cho cô em thử hài. Cô em thử hài thì may sao các ngón vào được lọt cả. Nhưng phải cái gót lại to quá. Bà mẹ đưa cho con dao bảo:

- Mày cứ chặt đi một miếng gót chân. Mày mà được làm hoàng hậu thì chả bao giờ phải đi chân nữa.

Cô gái chặt một miếng gót chân, cố đút chân vào hài, cắn răng chịu đau, ra gặp hoàng tử.
Hoàng tử đặt cô dâu lên ngựa đi. Đi qua cây dẻ đôi chim câu đậu trên cành hót:

Cúc cu cu!
Hoàng tử nhìn xem
Chiếc hài vấy máu.
Vì chân dài quá
Nên phải chặt chân
Chính cô dâu thật
Vẫn ở trong nhà!


Hoàng tử nhìn xuống thấy máu ở hài chảy ra, thấm đỏ cả tất trắng, quay ngựa, mang cô dâu trả về nhà bố mẹ cô mà bảo:

- Đây cũng chưa phải cô thật. Ông còn cô con gái nào khác không?

Ông bố đáp:

- Thưa Hoàng tử không ạ. Chỉ có con Lọ lem bé tí, xanh xao là con vợ cả đã chết. Thứ nó thì chả làm cô dâu được!

Hoàng tử bảo cứ cho gọi ra. Dì ghẻ thưa:

- Thưa hoàng tử, không nên. Nó bẩn thỉu quá, trông tởm lắm.

Hoàng tử nhất định đòi Lọ lem lên kỳ được. Cô rửa mặt mũi chân tay, đến cúi chào Hoàng tử. Hoàng tử đưa cho chiếc hài. Cô ngồi lên ghế đẩu, rút chân ra khỏi chiếc guốc gỗ thô kệch, đút chân vào chiếc hài vừa như in. Cô đứng dậy, Hoàng tử thấy mặt thì nhận ra cô gái xinh đẹp đã nhảy với mình bèn phán:

- Cô dâu thật đây rồi!

Dì ghẻ và hai con sợ quá, tái mặt đi. Hoàng tử đặt Lọ lem lên ngựa đi. Khi qua cây dẻ, đôi chim câu hót:

Cúc cu, hãy trông kìa!
Cúc cu cu!
Hoàng tử nhìn xem
Hài không có máu
Vì hài vừa quá
Không phải chặt chân
Đúng cô dâu thật
Hoàng tử đưa về.


Hót xong, đôi chim câu bay khỏi cây, xuống đậu trên vai cô Lọ lem, một con bên trái, một con bên phải.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:01  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Cô bé quàng khăn đỏ



Grim




Ngày xưa có một cô bé thùy mị, ai thấy cũng yêu. Yêu nhất vẫn là bà, có gì bà cũng đem cho cháu. Bà cho cháu một chiếc khăn quàng bằng nhung đỏ. Chiếc khăn hợp với cô quá đi mất, đi đâu cô cũng quàng. Vì vậy người ta gọi cô là Cô bé quàng khăn đỏ.

Một hôm, mẹ bảo cô:

- Khăn đỏ con ạ, đây có miếng bánh và chai rượu vang. Con mang đến cho bà nhé. Bà ốm yếu, mang biếu bà để bà xơi cho lại người. Con đi đi kẻo lát nữa nắng. Con đi cho ngoan, đừng có đi lung tung ra khỏi đường cái kẻo vỡ chai, không có gì mang đến biếu bà. Vào buồng bà thì con nhớ chào bà, đừng có vội mắt là mày lét nhìn khắp các xó nhà.

Khăn đỏ bảo mẹ:

- Con sẽ làm đầy đủ như mẹ dặn.

Rồi cô bé chào mẹ ra đi.

Nhà bà Khăn đỏ ở trong rừng, đi khỏi làng độ nửa giờ. Khăn đỏ vào rừng thì gặp chó sói. Em không biết sói là một con vật độc ác nên không sợ. Sói chào Khăn đỏ. Khăn đỏ chào lại. Sói hỏi:

- Cháu Khăn đỏ đi đâu sớm thế?

- Cháu đi đến nhà bà.

- Cháu mang gì ở khăn gói thế?

- Bánh và rượu vang đấy. Hôm qua ở nhà làm bánh. Bà ốm, cháu mang đến để bà xơi cho khỏe người.

- Bà cháu ở đâu, cháu Khăn đỏ?

- Đi vào rừng độ mười lăm phút nữa thì tới. Nhà ở dưới ba cây sồi to, mé dưới có nhiều bụi dẻ. Bác biết chứ!

Sói nghĩ bụng: "Cái mồi non này hẳn là béo ngon hơn mụ già kia". Hắn tự nhủ phải lập mưu chén được cả hai. Hắn mon men lại gần Khăn đỏ bảo:

- Này cháu Khăn đỏ ạ, cháu hãy nhìn những bông hoa tươi đẹp quanh đây. Sao cháu không chịu nhìn một tí? Bác chắc là cháu chẳng bao giờ để ý nghe chim hót véo von nhỉ. Cháu đi đâu mà cứ đăm đăm như đi học thế? Ở trong rừng là vui lắm nhé!

Khăn đỏ mở to mắt ra nhìn. Em thấy ánh nắng rập rờn qua cành cây, hoa tươi la liệt, em nghĩ bụng giá mang bó hoa tươi đến tặng bà chắc bà thích lắm. Trời còn sớm thế nào đến chả kịp. Em bèn ra khỏi đường rẽ vào rừng hái hoa. Hái được một bông, em nghĩ là vào sâu chắc có bông đẹp hơn, và em lại mon men đi tới. Cứ thế mãi, càng ngày em càng tiến sâu vào rừng.
Chó sói đi thẳng tới nhà bà cụ, gõ cửa.

- Ai đấy?

- Cháu Khăn đỏ đây, bà mở cửa cho cháu bà ơi. Cháu mang lại cho bà bánh và rượu vang đây.

Bà nói:

- Thì cháu cứ việc đẩy then mà vào. Bà yếu quá không dậy được đâu.

Sói đẩy then cửa, cửa mở tung. Nó chẳng nói chẳng rằng, đến thẳng giường bà, nuốt chửng bà. Rồi nó mặc quần áo bà, đội mũ bà, nằm vào giường bà, kéo rèm che lại. Khăn đỏ tha thẩn chạy đi hái hoa. Mãi đến lúc hái nhiều quá mang không xuể, nó mới chợt nhớ đến bà, vội lên đường đi đến nhà bà. Nó thấy cửa mở, lạ lắm. Nó vào phòng thấy có gì khang khác. Nó nghĩ bụng sao hôm nay ở nhà bà lại cảm thấy rờn rợn, không thấy thoải mái như mọi khi. Nó chào bà nhưng không thấy có tiếng đáp. Cô bé lại bên giường, kéo rèm ra, thì thấy bà nằm, mũ kéo
chùm kín mặt, trông lạ quá.

Cô bé nói:

- Bà ơi bà! Sao tai bà to thế?

- Tai bà to để nghe cháu rõ hơn.

- Bà ơi bà! Sao mắt bà to thế?

- Mắt bà to để nhìn cháu rõ hơn.

- Bà ơi bà! Sao tay bà to thế?

- Tay bà to để bà ôm cháu chặt hơn.

- Úi trời ơi, sao mồm bà to thế kia?

- Mồm bà to để bà ăn cháu ngon hơn.

Sói nói xong liền nhảy ra khỏi giường, nuốt chửng em bé Khăn đỏ đáng thương. Sói đã no nê lại nằm xuống giường ngủ ngáy o o. Có người đi săn qua nhà nghĩ bụng:

- Quái! Sao bà lão ngáy to thế này, phải tạt vào xem bà ấy có làm sao không.

Bác bước vào phòng, đến giường thì thấy sói đang nằm. Bác ta nói:

- Con quỷ tội lỗi này, thì ra tao lại gặp mày ở đây. Tao tìm mày mãi...

Bác giơ súng lên định bắn. Nhưng bác chợt nghĩ ra là chắc sói đã ăn thịt bà lão, và tuy vậy vẫn còn có cơ cứu bà. Bác nghĩ không nên bắn mà nên lấy kéo rạch bụng con sói đang ngủ ra. Vừa rạch được vài mũi thì thấy chiếc khăn quàng đỏ chóe, rạch được vài mũi nữa thì cô bé nhảy ra kêu:

- Trời ơi! Cháu sợ quá! Trong bụng sói, tối đen như mực.

Bà lão cũng còn sống chui ra, thở hổn hển. Khăn đỏ vội đi nhặt đá to nhét đầy bụng sói. Sói tỉnh giấc muốn nhảy lên, nhưng đá nặng quá, nó ngã khuỵu xuống, lăn ra chết.

Ba người đều vui mừng. Người đi săn lột lấy da sói mang về nhà. Bà lão ăn bánh, uống rượu vang của Khăn đỏ mang đến và cảm thấy lại sức. Khăn đỏ nghĩ bụng: "Từ nay trở đi, mẹ đã dặn gì là phải nghe mẹ, không bao giờ được rời khỏi đường chạy một mình vào rừng sâu".

Có một người còn kể là có lần Khăn đỏ lại mang bánh đến cho bà thì có một con sói khác đến nói chuyện với nó, định lừa cho nó rời khỏi đường. Khăn đỏ đã đề phòng, cứ đi thẳng. Khăn đỏ đến nói cho bà biết là em đã gặp sói chào em, mắt trông rất ác.

- Nếu không phải ở đường cái thì nó đã ăn thịt cháu rồi.

Bà bảo:

- Cháu vào đây ta đóng cửa lại kẻo nó vào.

Được một lát, chó sói đên gõ cửa gọi:

- Bà ơi, bà mở cửa cho cháu. Cháu là Khăn đỏ mang bánh lại đây.

Hai bà cháu im lặng không mở cửa. Con vật đầu xám bèn rón rén đi quanh nhà mấy lần. Rồi nó nhảy lên mái nhà, định đợi đến chiều tối, khi nào Khăn đỏ ra về thì sẽ lén đi theo sau, và sẽ ăn thịt cô bé trong bóng tối. Nhưng bà cụ biết rõ ý định của nó. Ở trước cửa
nhà có một cái máng nước bằng đá. Bà bảo cháu:

- Cháu đi lấy thùng, Khăn đỏ ạ. Hôm qua bà làm xúc xích. Cháu đi xách nước nấu xúc xích đổ vào trong máng ấy.

Khăn đỏ xách nước xúc xích đổ mãi cho đên khi chiếc máng to đã đầy. Lúc đó mùi thơm điếc mũi sói, sói nhìn xuống hít mãi. Nó thò mãi cổ xuống, không kìm người được nữa, trơn tuột từ mái nhà rơi đúng vào cái máng to và chết đuối. Khăn đỏ vui vẻ về nhà,
không bị ai đụng đến.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:02  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Bà lão chăn ngỗng



Grim




Ngày xưa có một bà già nua, sống cùng đàn ngỗng tại một nơi hẻo lánh giữa núi rừng. Bà ở trong một căn nhà nhỏ. Chúng quanh có một khu rừng lớn. Sáng nào bà cũng chống nạng lẩy bẩy đi vào rừng. Bà bận nhiều việc lắm, một người nhiều tuổi như bà tưởng khó có thể làm nổi: đi kiếm cỏ cho ngỗng, hái quả dại vừa tầm tay
với, vác cả lên lưng về nhà. Trông thì tưởng chừng bà vác nặng đến ngã khuỵu xuống mất, nhưng cũng may là bao giờ bà cũng mang về được tới nhà. Bà gặp ai cũng chào hỏi niềm nở:

- Chào người bà con. Hôm nay trời đẹp nhỉ! Bà con thấy già đi tha cỏ về thì chắc lấy làm lạ lắm nhỉ, ai mà chẳng phải vác gánh nặng của mình trên lưng.

Tuy vậy, thiên hạ không thích gặp bà lão, họ thường đi đường vòng để tránh bà. Khi một ông bố cùng con trai đi qua mặt bà, ông khẽ bảo con:

- Con phải coi chừng mụ già này. Mụ ấy thâm hiểm lắm. Đó là một mụ phù thủy đấy.

Một buổi sáng, có chàng thanh niên đẹp trai đi qua rừng. Trời nắng, chim kêu ríu rít, gió mát thổi qua cành lá, lòng chàng lâng lâng vui sướng. Chàng chẳng gặp một ai. Bỗng chàng nhìn thấy bà phù thủy đang cắt cỏ bằng liềm. Bà đã nhét vào tay nải một mớ
nặng, cạnh đó còn có hai giỏ đầy lê và táo dại. Chàng nói:

- Này bà lão, bà làm thế nào mà mang hết đi được?

Bà già đáp:

- Thưa ngài, thế mà tôi vẫn phải mang cho được đấy. Con nhà giầu có đâu cần như vậy. Nhưng nông dân thường nói: "Thôi đừng ngó quẩn ngó quanh làm gì! Cái lưng người vốn nó phải còng."

Chàng đứng bên bà, bà bèn bảo:

- Thế chàng giúp già một tay có được không? Lưng chàng còn thẳng, chân còn cứng, đối với chàng thì dễ thôi. Nhà già cũng gần đây, trên cái bãi hoang kia, ở ngay sau núi, chàng chạy một lát thì đến ngay đấy mà.

Chàng thanh niên thương hại bà lão, trả lời:

- Quả tôi không phải là nông dân, mà là một vị bá tước giàu có, nhưng thôi cứ để tôi mang giúp bà chiếc tay nải kia.

Bà già nói:

- Nếu chàng cố giúp cho thì quý hóa quá. Chắc chắn là chàng phải đi mất một giờ đấy, nhưng đối với chàng thì thấm vào đâu. Chàng phải mang giúp cho cả táo và lê đến đấy nữa nhé!

Nghe nói đi mất một giờ thì vị bá tước trẻ tuổi hơi phân vân, nhưng bà già không buông chàng ra, bà buộc khăn gói trên lưng chàng, khoác đôi giỏ vào cánh tay chàng và nói:

- Chàng thấy chưa, cũng dễ thôi mà!

Bá tước vừa đáp vừa nhăn nhó:

- Đâu, không dễ đâu! Cái bọc nặng như là bọc đá ấy, lê táo cũng nặng như chứ. Thở chẳng ra hơi nữa!

Chàng muốn trút tất cả mọi thứ, nhưng bà già không chịu. Bà nói mỉa:

- Trông kìa! Có đời thuở nhà ai một vị trai tráng mà không chịu mang cái mà một bà già như ta đã từng lê đi bao nhiêu lần. Nói hay, nói đẹp thì sao mà mau thế! Hễ công việc thật thì chỉ muốn lẩn thôi.

Bà nói tiếp:

- Sao chàng lại chần chừ, đứng ỳ ra như thế! Chịu khó nhấc chân lên chứ. Không ai đỡ gói cho đâu.

Còn đi trên đất bằng thì chàng còn chịu nổi. Nhưng khi lên núi, phải trèo, đá lăn dưới chân chàng y như chúng là những vật sống thì thật là quá sức chàng. Mồ hôi nhễ nhại trên trán, chảy ròng ròng xuống lưng chàng, khi thì nóng bốc lên, khi thì lại lạnh toát
sống lưng. Chàng nói:

- Bà già ơi, tôi không chịu nổi nữa, cho tôi nghỉ một tí.

Bà già đáp:

- Không nghỉ ở đây được. Để đến nơi đã, hãy nghỉ. Bây giờ cứ đi đi. Biết đâu thế chả là điều hay cho chàng.

Bá tước nói:

- Mụ già kia, mụ thật hỗn xược.

Chàng định vứt chiếc khăn gói đi, nhưng loay hoay mãi mất công toi. Khăn gói dính chặt vào lưng chàng y như là nó mọc từ lưng ra. Chàng quay cuồng, vặn vẹo mãi mà không tài nào thoát ra được. Bà già thấy vậy cười và nhảy nhót trên đôi nạng một cách khoái trá. Bà nói:

- Chàng ơi, xin chàng chớ tức giận, mặt chàng đã đỏ chín lên như gà chọi rồi. Chàng cứ chịu khó đeo khăn gói đi, đến nhà, già sẽ thưởng cho xứng công.

Chàng biết làm sao bây giờ? Chàng đành tuân theo số phận, nhẫn nhục lê theo bà già. Bà ta có vẻ mỗi lúc một lanh lẹn, còn chàng thì thấy gánh trên vai mỗi lúc một thêm nặng. Rồi bỗng bà nhún người nhảy một cái, ngồi trên khăn gói. Bà gầy khẳng khiu như cái cọc rào, mà sao nặng hơn cả một mụ nông dân béo? Chàng thanh niên lảo đảo, nhưng nếu chàng không chịu đi thì bà lấy roi và cành gai đánh vào chân chàng. Chàng không ngừng rên rỉ, trèo lên núi, mãi đến khi sắp khuỵu xuống mới tới nhà bà. Đàn ngỗng thấy bà già gọi thì vỗ cánh vươn cổ lên, chạy ra đón và kêu quang quác. Một mụ đã có tuổi, mạnh
khỏe to lớn, xấu như ma lem, cầm roi theo sau đàn ngỗng. Bác ta bảo bà lão:

- Mẹ ơi, có việc gì mà sao lâu thế?

Bà lão đáp:

- Con cứ yên tâm, chả gặp điều gì dữ cả. Trái lại, chàng đây lại mang giúp cho mẹ. Này con ạ, khi mẹ mệt chính chàng ta lại cõng mẹ trên lưng nữa. Thành ra đường đi không thấy xa, đi rất vui vẻ và luôn luôn đùa giỡn với nhau.

Mãi sau bà già mới chịu tụt xuống, đỡ khăn gói khỏi lưng chàng, lấy giỏ khỏi tay chàng, thân mật nhìn chàng và bảo:

- Thôi bây giờ, chàng hãy ngồi ở chiếc ghế dài trước cửa mà nghỉ. Chàng thật đáng được trả công một cách xứng đáng. Mà nhất định là có thôi.

Rồi bà bảo mụ chăn ngỗng:

- Con hãy vào trong nhà, con ạ. Con đứng một mình với chàng trai trẻ thật là không tiện, không nên đổ dầu vào lửa. Chàng ta có thể mê con đấy.

Bá tước chẳng biết nên cười hay nên khóc. Chàng nghĩ bụng: đồ của thừa như thế, giá có trẻ hơn ba chục tuổi cũng chẳng làm cho mình rung động được. Trong khi ấy, bà lão vuốt ve đàn ngỗng như con, bà cùng mụ con gái vào nhà. Chàng thanh niên ngả mình trên chiếc ghế dài ở gốc một cây táo. Không khí êm dịu, ấm áp. Chung quanh rải ra một
đống cỏ xanh rờn, đầy hoa ngọc châu, hoa bách lý và hàng trăm thứ hoa khác. Một con suối trong veo, lóng lánh ánh mặt trời chảy ngang. Đàn ngỗng trắng nhởn nhơ đi qua đi lại hoặc lội bì bõm dưới nước. Chàng nghĩ bụng:

- Ở đây thật là yêu kiều, nhưng ta buồn ngủ quá, mắt cứ díp lại. Ta phải ngủ đi một tí mới được. Chỉ mong đừng có cơn gió nào thổi bay đôi chân mình đi, chân mình đã nhũn ra như bùi nhùi mất rồi.

Chàng ngủ được một lát thì bà già đến lay dậy, bà bảo:

- Dậy đi, chàng ơi! Chàng không ở lại đây được đâu, quả là già đã làm cho chàng vất vả, nhưng cũng chưa hại gì đến tính mạng. Giờ thì già trả công cho chàng. Tiền bạc và của cải thì chàng không cần đến, để ta cho thứ khác.

Nói rồi, bà nhét vào tay chàng một chiếc hộp nhỏ làm bằng một viên ngọc xanh nguyên khối và dặn:

- Chàng hãy giữ hộp này cẩn thận, nó sẽ mang phúc đến cho chàng.

Bá tước vùng dậy, cảm thấy trong người khoan khoái, lại sức, cảm ơn bà già rồi lên đường, không buồn quay lại nhìn con gái xinh đẹp của bà lấy một lần. Chàng đi được một quãng đường vẫn còn nghe thấy tiếng ngỗng kêu vui vẻ từ xa vọng lại. Bá tước phải lang thang ba ngày trong rừng hoang mới tìm ra được lối đi. Chàng đến một thành phố lớn. Ở đấy không ai biết chàng. Người ta dẫn chàng đến cung điện. Vua và hoàng hậu đã ngự triều. Bá tước quì xuống, rút chiếc hộp bằng ngọc xanh ở túi ra để xuống chân hoàng hậu. Bà truyền cho chàng đứng dậy, chàng cầm lấy chiếc hộp dâng lên bà vừa mở ra xem thì ngã xuống đất bất tỉnh nhân sự. Bá tước bị bọn thị vệ nắm chặt lấy định đem tống ngục. Nhưng hoàng hậu mở mắt, truyền phải tha chàng. Bà đuổi mọi người ra và muốn tiếp chuyện riêng chàng. Khi chỉ còn mình bà với bá tước, hoàng hậu khóc lóc thảm thiết
và bà nói:

- Giàu sang phú quí đối với ta có làm gì, vì sáng nào ta thức dậy cũng phải lo âu phiền não. Ta có ba con gái, con gái út đẹp nhất, thiên hạ coi là của quí kỳ diệu. Da nó trắng như tuyết, má nó hồng như táo, tóc nó rực rỡ như ánh sáng mặt trời. Khi nó khóc, không phải giọt lệ thường, mà là hạt châu, hạt ngọc ở mắt nhỏ ra. Năm nó mười lăm tuổi, vua cho đòi ba chị em nó đến trước ngai vàng. Chàng không thể tưởng tượng quần thần trố mắt ra nhìn thế nào khi đứa thứ ba bước vào. Thật y như mặt trời mọc. Vua phán "Các con ạ, cha không biết ngày nào cha chết. Hôm nay, cha muốn quyết định xem sau khi cha chết, mỗi con được hưởng gì. Các con đều yêu cha cả, nhưng con nào yêu cha tha thiết nhất sẽ được hưởng cái quý nhất". Cô nào cũng nhận là yêu cha tha thiết nhất. Vua hỏi: "Các con hãy nói xem các con yêu cha thế nào. Cha sẽ hiểu được lòng các con". Cô cả nói: "Con yêu cha như yêu đường ngọt nhất". Cô thứ hai nói: "Con yêu cha như yêu chiếc áo đẹp nhất của con". Cô thứ ba lặng thinh. Vua cha liền hỏi: "Thế nào, con yêu ta như thế nào?". Cô đáp: "con không biết lấy gì ví lòng con yêu cha". Nhưng vua cha đòi cô phải nói lên cái gì để ví. Sau mãi cô mới nói: "Món ăn ngon nhất mà thiếu muối thì con không thể ăn ngon được. Do đó con yêu cha như muối". Vua cha nghe vậy, nổi giận phán: "Nếu mày yêu ta như muối thì ta sẽ lấy muối thưởng tấm lòng của mày". Vua liền chia giang sơn làm đôi cho hai cô con gái lớn và sai buộc lên lưng cô út một bị muối, rồi cho hai người nông nô dẫn cô vào rừng hoang.

Hoàng hậu nói tiếp:

- Tất cả chúng tôi đều van xin, nhưng vua vẫn không nguôi giận. Chao ôi! Con tôi nó khóc lóc thảm thiết làm sao khi nó phải từ bỏ chúng tôi. Suốt dọc đường rơi đầy châu ngọc ở mắt nó tuôn ra. Sau đó ít lâu, vua hối hận vì đã quá nhẫn tâm. Vua cho đi tìm đứa
con đáng thương khắp trong rừng nhưng chẳng ai thấy nó. Ta cứ nghĩ nó bị thú dữ ăn thịt là ta lại buồn rầu. Đôi khi, ta tự an ủi với hy vọng là nó vẫn còn sống, chui rúc trong một cái hang nào đó hay nương tựa ở nơi nào có người thương hại. Chàng có thể tưởng tượng
được không, khi ta mở chiếc hộp con bằng ngọc xanh của chàng ra, ta thấy có một hạt ngọc đúng như hạt lệ ở mắt con ta nhỏ ra. Chàng hiểu tại sao ta thấy ngọc mà lòng ta xúc động. Chàng phải nói cho ta biết làm sao ngọc ấy lại vào tay chàng.

Bá tước kể lại cho hoàng hậu biết là chàng nhận được ngọc của một bà lão trong rừng, có vẻ khả nghi lắm, chắc là một mụ phù thủy. Chàng không hề nghe nói gì về công chúa hoặc trông thấy nàng. Vua và hoàng hậu quyết định đi tìm bà lão vì nghĩ là ngọc ở đâu ắt là có thể tìm ra tung tích con mình ở đó.

Bà lão ngồi ở ngoài trời, chỗ bãi hoang, kéo sợi bên chiếc giường. Trời đã tối. Ở dưới bếp, một thanh củi hắt ra ánh sáng leo lắt. Bỗng ở ngoài có tiếng ồn ồn, ngỗng từ đồng cỏ về nhà, kêu quang quác ầm lên. Một lát sau, một người đàn bà bước theo vào. Bà lão chả buồn chào đáp lại người ấy, chỉ khẽ gật đầu. Người đàn bà lại ngồi bên mẹ cầm guồng quay sợi nhanh nhẹn như một thiếu nữ. Hai người ngồi vậy hai giờ, không nói với nhau nửa lời. Mãi sau có tiếng động khẽ ở cửa sổ. Rồi có đôi mắt sáng như lửa chằm chằm nhòm vào. Đó là một con cú, nó hú lên ba lần. Bà già ngẩng lên nhìn một tí rồi bảo:

- Con ạ, đã đến lúc con đi ra làm việc rồi con ạ.

Người đàn bà đứng dậy đi ra. Bác đi đâu vậy? Bác băng qua đồng cỏ, đi mãi đến thung lũng. Sau đó bác đến một dòng suối, trên bờ có ba cây sồi cổ thụ. Trong khi ấy mặt trăng tròn và to đã lên quá đỉnh núi. Trăng sáng đến nỗi có thể tìm được cái kim nhỏ. Bác bỏ miếng da úp trên mặt ra rồi xuống suối rửa. Xong xuôi, bác nhúng miếng da vào nước rồi đặt xuống đồng cỏ để phơi khô và cho bạc màu dưới ánh trăng. Bác biến đổi khác hẳn. Chưa ai được thấy một người đẹp đến thế! Mái tóc hoa râm vừa rơi xuống thì mớ tóc vàng sổ ra như ánh mặt trời, phủ lên khắp người như một chiếc áo khoác. Đôi mắt cô thiếu nữ sáng ngời như sao trên trời, đôi má ửng hồng mịn dịu như hoa táo. Nhưng cô gái xinh đẹp lại buồn rầu. Cô ngồi khóc thảm thiết, nước mắt tuôn lã chã trên mớ tóc dài rơi xuống đất. Cô cứ ngồi mãi cho đến khi trên cành cây gần đó có tiếng loạt xoạt, rào rào.
Cô nhảy chồm lên như con hoẵng nghe tiếng súng của người đi săn, đúng lúc ấy mặt trăng bị mây che phủ. Chỉ trong giây lát, cô lấy miếng da đắp lên mặt như cũ rồi biến đi như ngọn đèn bị gió thổi tắt. Cô run rẩy như lá liễu, bỏ chạy về nhà. Bà già đứng trước cửa. Cô định kể lại sự việc xảy ra. Nhưng bà lão cười thân mật và bảo:

- Mẹ biết hết cả rồi.

Bà dẫn cô vào buồng và nhóm thêm một thanh củi nữa. Nhưng bà không ngồi bên guồng nữa mà đi lấy một cái chổi quét tước sạch sẽ. Bà bảo cô:

- Tất cả mọi thứ đều phải tinh tươm, sạch sẽ.

Cô bảo:

- Này mẹ, nhưng sao khuya rồi mẹ mới bắt đầu làm việc? Mẹ định làm gì?

Bà già hỏi:

- Thế con không biết mấy giờ rồi à?

Cô đáp:

- Chưa đến nửa đêm, nhưng đã quá mười một giờ rồi.

Bà nói tiếp:

- Thế con không biết cách đây ba năm, đúng ngày này năm ấy, con đã đến đây với ta à? Vận hạn của con đã hết, chúng ta không thể cùng ở với nhau nữa.

Cô gái sợ hãi hỏi:

- Trời ơi, mẹ yêu dấu, mẹ định bỏ con à! Con biết đi đâu bây giờ? Con không có bạn bè, không có quê hương, con biết nương tựa vào ai? Mẹ muốn gì, con đều đã làm cả, có bao giờ con làm phật ý mẹ đâu. Xin mẹ đừng đuổi con đi!

Bà già không muốn nói cho cô gái việc sắp xảy ra. Bà bảo cô:

- Mẹ không thể ở đây lâu hơn nữa. Nhưng khi mẹ dọn đi thì nhà cửa phải cho sạch sẽ. Vì vậy, con đừng làm cản trở công việc của mẹ. Về phần con, chớ có lo ngại. Con sẽ tìm ra một mái nhà có thể ở được. Con cũng sẽ hài lòng về công xá mẹ trả cho con.

Cô gái lại hỏi:

- Nhưng mẹ hãy nói cho con biết việc sắp xẩy ra.

- Mẹ bảo con lần nữa là đừng có quấy rầy mẹ trong khi mẹ bận làm. Con đừng nói gì nữa, con cứ về phòng riêng bỏ miếng da che mặt xuống, mặc chiếc áo lụa vào, chiếc áo mà con mặc khi con đến với mẹ, rồi cứ đợi ở trong phòng cho đến khi mẹ gọi ra.

Nhưng để tôi kể cho các bạn nghe về việc vua và hoàng hậu cùng bá tước ra đi tìm bà già ở bãi hoang. Ban đêm, vào rừng, bá tước bị lạc vua và hoàng hậu nên phải đi một mình. Chàng đi mãi đến xẩm tối. Chàng trèo lên một cây định ngủ qua đêm vì lo lạc đường. Ánh trăng vừa tỏ xuống, sáng khắp vùng thì chàng thấy có một bóng người thẫn thờ từ trên núi xuống. Người đàn bà không cầm roi trong tay nhưng chàng nhận ra ngay là bác chăn ngỗng mà chàng đã gặp ở nhà bà già trước kia. Chàng kêu lên:

- Chà, mụ ấy đây rồi. Ta đã vớ được mụ phù thủy này thì mụ kia cũng không thoát được đâu.

Chàng rất ngạc nhiên khi thấy mụ đến bên suối, bỏ tấm da che mặt ra rửa thì mớ tóc vàng xõa xuống cả người. Trên đời, chàng chưa từng thấy có ai đẹp thế. Chàng nín thở, cố vươn cổ qua cành lá nhìn không chớp mặt. Không hiểu tại chàng vươn quá xa hay tại duyên cớ gì khác, bỗng cành cây kêu đánh rắc một cái và ngay lúc đó cô gái lại đeo bộ da mặt vào, nhảy như con hoẵng khỏi nơi đó. Cùng lúc ấy, mây che khuất mặt trăng, chàng không nhìn thấy nàng nữa.

Nàng vừa biến mất thì bá tước trèo xuống, rảo bước theo sau. Chàng đi được một lát thì thấy bóng tối lờ mờ, hai bóng người đi trên đồng cỏ. Đó là vua và hoàng hậu. Hai người nhìn thấy xa xa có ánh đèn trong chiếc nhà nhỏ của bà già bèn đi lại đó. Bá tước kể lại
những điều kì lạ chàng được nhìn thấy bên suối và hai người đinh ninh đó là cô con gái bị lạc. Họ vui mừng đi tiếp và chẳng mấy chốc tới căn nhà con. Chung quanh nhà, ngỗng nằm ngủ, đầu ấp vào cánh, không con nào động đậy. Họ nhìn qua cửa sổ thấy bà lão ngồi
yên lặng, kéo sợi, đầu gật gù, không nhìn ngang ngửa. Trong buồng sạch sẽ y như là nơi ở của những người ngoài trần tục, chân không dính một tí bụi nào. Nhưng họ không nhìn thấy con gái bà đâu cả. Họ đứng nhìn mọi thứ một lúc rồi đánh bạo, khẽ gõ cửa sổ. Hình như bà lão vẫn chờ họ nên bà đứng dậy một cách niềm nở:

- Xin các vị cứ việc vào, già biết các vị rồi.

Khi họ vào buồng rồi bà lão nói:

- Nếu cách đây ba năm, các người đừng đuổi đưa con ngoan ngoãn dễ thương một cách bất công thì có phải đỡ một quãng đường dài không? Kể ra thì cũng chẳng thiệt hại gì cho cô ta, cô phải chăn ngỗng ba năm thôi. Cô chẳng tiêm nhiễm điều gì xấu cả, cô vẫn giữ
được tấm lòng trong sạch. Các người đã bị trừng phạt khá đủ rồi vì đã sống trong lo sợ.
Nói rồi, bà lão đi đến phòng gọi:

- Con ơi ra đi con.

Cửa mở, công chúa đi ra, mặc áo lụa, tóc vàng mắt sáng ngời. Nàng đi tới cha mẹ, ôm choàng lấy cổ hôn. Lẽ dĩ nhiên là tất cả mọi người đều khóc vì vui mừng. Vị bá tước trẻ tuổi đứng bên họ. Khi nàng nhìn thấy chàng thì mặt nàng đỏ ửng như đỗá hoa hồng, chính nàng cũng không biết tại sao.

Vua bảo:

- Con yêu dấu ơi, biết lấy gì cho con bây giờ, giang sơn của cha, cha đã cho đi hết rồi.

Bà lão nói:

- Nàng không cần gì đâu. Già đã tặng cho nàng những giọt lệ đã vì các người mà khóc. Đó toàn là ngọc cả, đẹp hơn hạt châu dưới bể, quí giá hơn tất cả giang sơn nhà vua. Để trả công hầu hạ của nàng, già để cho nàng căn nhà con của già.

Bà lão nói xong thì biến mất. Ở trên tường có tiếng nổ khe khẽ, họ nhìn quanh thì thấy căn nhà nhỏ đã biến thành một tòa lâu đài rực rỡ, tiệc hoàng gia dọn linh đình, kẻ hầu người hạ chạy đi chạy lại tới tấp.

Câu chuyện còn tiếp diễn, bà tôi kể chuyện này trí nhớ kém quá nên quên mất đoạn sau. Thôi thì tôi cứ cho là nàng công chúa đẹp đẽ lấy bá tước, hai vợ chồng ở lại lâu đài, hưởng phúc trời cho. Tôi không rõ nhưng tôi không ngờ những con ngỗng trắng như
tuyết chăn ở bên nhà cũng đều là những cô thiếu nữ (xin đừng ai mếch lòng) mà bà cụ đã đem về nuôi, và có lẽ các cô ấy cũng đã hiện nguyên hình để làm thị nữ cho bà hoàng hậu trẻ tuổi. Có một điều chắc chắn là bà lão không phải là một mụ phù thủy như người ta tưởng mà là một bà lão tốt bụng. Rất có thể đó là bà mụ khi sinh ra công chúa đã chúc cho nàng khóc ra châu lệ chứ không phải nước mắt thường. Ngày nay truyện ấy không xẩy ra nữa, nếu không thì người nghèo khó chẳng mấy chốc trở nên giàu có.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:03  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Con thỏ biển




Grim


Ngày xửa ngày xưa, một nàng công chúa có một tòa lâu đài. Ở trên nóc tháp có một cái phòng với mười hai cửa sổ trông ra mọi hướng. Lên đó, nhìn xuống, công chúa thấy toàn bộ đất nước bao la. Qua cửa sổ thứ hất, nàng trông thấy rõ hơn một người bình thường, qua cửa sổ thứ hai, nàng trông thấy rõ hơn chút nữa, qua cửa sổ thứ ba lại rõ hơn nữa; và cứ thế, đến cửa sổ thứ mười hai, qua mỗi cửa sổ trông rõ hơn một ít, nàng trông thấy hết mọi vật ở trên mặt đất và ở dưới lòng đất. Không có gì giấu nổi nàng.

Nàng rất hiếu thắng, không muốn kém ai, muốn giữ uy quyền. Nàng tuyên bố chỉ lấy làm chồng người nào trốn kỹ đến nỗi nàng không tìm thấy được. Và nếu nàng tìm được thì người đó sẽ bị chặt đầu bêu trên một cái cọc. Đã có chín mươi bảy cái đầu bêu trên cọc ở trước cửa lâu đài và đã lâu không có ai đến cầu hôn. Nàng công chúa rất hài lòng. Nàng tự nhủ : “Thế là mình sẽ được sống tự do cho đến chết”.

Lúc đó, có ba anh em nhà kia đến cầu hôn và hy vọng sẽ gặp may. Người anh cả trốn trong một cái hố đá vôi, tưởng như thế là yên trí ! Nhưng chỉ cần nhìn qua cửa sổ thứ nhất là nàng công chúa đã phát hiện được. Nàng ra lệnh lôi anh ra khỏi hố và chặt đầu anh. Người anh thứ hai chui vào cái hầm ở trong lâu đài. Nhưng đối với anh này cũng thế thôi, nàng trông thấy ngay khi nhìn qua cửa sổ thứ nhất, thế là anh toi mạng. Đầu của anh bị cắm vào chiếc cọc thứ chín mươi chín.

Người em út ra mắt nàng, xin nàng cho anh suy nghĩ một ngày và cho anh sống qua hai lần thử thách đầu, nếu nàng phát hiện ra được anh. Nếu lần thứ ba thất bại thì anh xin chịu chết. Vì anh ta đẹp trai và lời van xin có vẻ xuất phát từ đáy lòng, nàng bảo anh :

- Ta đồng ý như vậy. Nhưng cái đó cũng không mang lại cho anh sự may mắn đâu!

Ngày hôm sau, anh ta suy nghĩ rất lâu. Anh trốn đi đâu được ? Anh không tìm ra cách. Anh lấy súng đi săn. Anh trông thấy một con quạ và ngắm bắn. Khi anh sắp bắn, quạ kêu lên :

- Đừng bắn tôi, tôi sẽ trả ơn anh.

Anh bỏ súng xuống và tiếp tục đi. Đi tới một cái hồ, anh bắt gặp một con cá từ dưới sâu ngoi lên mặt nước. Khi anh ngắm bắn, cá bảo anh :

- Đừng bắn tôi, tôi sẽ trả ơn anh.

Anh tha cho nó lặn sâu xuống đáy hồ và lại lên đường. Anh gặp một con cáo đang đi khập khiễng. Anh bắn nó, nhưng bắn trượt. Con cáo bảo anh :

- Anh hãy lại đây và nhổ cho tôi cái gai cắm vào chân tôi.

Anh làm thế, nhưng sau đó, anh muốn giết cáo để lấy bộ da. Cáo bảo anh :

- Hãy để tôi sống ! Tôi sẽ trả ơn cho anh.

Chàng trai thả cho nó chạy. Chiều đến anh về nhà. Ngày hôm sau, anh phải tìm ra chỗ trốn. Nhưng nghĩ nát óc mà anh cũng chẳng tìm thấy nơi để trốn. Anh vào rừng gặp quạ :

- Ta đã tha chết cho quạ; bây giờ đến lựơt quạ phải nói cho ta biết là ta phải trốn ở đâu để nàng công chúa không nhìn thấy ta được.

Con quạ nghiêng đầu nghĩ ngợi một hồi lâu. Cuối cùng nó nói :

- Tôi nghĩ ra rồi !

Nó tìm một cái trứng trong tổ nó, bửa ra làm đôi và cho chàng trai trốn vào đó. Con quạ gắn hai nửa vỏ trứng lại và nằm lên trên. Khi nàng công chúa nhìn qua cửa sổ thứ nhất thì không thấy chàng trai đâu. Đến cửa sổ sau, cũng không nhìn thấy. Nàng bắt đầu lo ngại. Đến cửa sổ thứ mười một thì nàng nhìn thấy chàng trai. Nàng cho giết con quạ và lấy cái trứng bửa ra. Và chàng trai đành chui ra khỏi trứng. Nàng công chúa bảo :

- Lần này ta tha tội chết cho nhà người. Nhưng nếu những lần sau , nhà ngươi không trốn được kỹ hơn thì nhà ngươi sẽ chết.

Ngày hôm sau, anh ta đi đến hồ, gọi cá lên và bảo :

- Ta đã để cho cá sống; bây giờ đến lượt cá chỉ cho ta chỗ trốn để nàng công chúa không tìm thấy ta.

Con cá suy nghĩ. Cuối cùng nó reo lên :

- Tôi tìm thấy rồi ! Tôi sẽ giấu anh ở trong bụng tôi.

Con cá nuốt chửng chàng trai và lặng sâu xuống nước. Nàng công chúa lên lầu, nhìn qua các cửa sổ. Đến cửa sổ thứ mười một nàng vẫn chưa tìm thấy chàng trai. Nàng hốt hoảng. Nhưng cuối cùng nàng tìm thấy anh khi nhìn qua cửa sổ thứ mười hai. Nàng ra lệnh bắt con cá và mổ bụng; chàng trai lộ ra. Chúng ta cũng hiểu là chàng trai lúng túng thế nào. Công chúa nói :

- Đã hai lần ta tha tội chết cho nhà người. Nhưng đầu nhà người chắc chắn sẽ bị cắm trên cọc thứ một trăm.

Ngày cuối cùng, anh ta đi ra cánh đồng, lòng nặng trĩu và gặp con cáo :

- Cáo ơi, cáo có biết hết mọi nơi có thể trốn đựơc – anh bảo cáo – ta đã để cho cáo sống, bây giờ đến lượt cáo bảo ta phải trốn ở đâu để nàng công chúa không tìm được ta.

- Thật là khó – cáo nói, mặt tư lự. Cuối cùng nói kêu lên – tôi tìm ra rồi !

Cáo dẫn anh đến một con suối, lặn xuống và khi lên khỏi mặt nước thì giống một người hàng xén hay một người buôn súc vật đi ra chợ. Chàng trai cũng phải lặn xuống suối, khi ngoi lên, anh hoá thành một con thỏ biển. Người lái buôn đi ra tỉnh và trưng bày con vật lạ. Mọi người xúm lại xem. Nàng công chúa cũng đến xem. Và nàng rất thích con vật lạ, nàng trả cho người lái buôn một số tiền lớn để mua nó. Trước khi giao con vật cho công chúa, cáo bảo nó :

- Khi nàng công chúa đi ra cửa sổ, anh hãy chui vào nấp dưới mớ tóc của nàng.

Đã đến lúc công chúa đi tìm chàng trai. Nàng nhìn qua các cửa sổ, từ cửa sổ này đến cửa sổ khác, từ cửa sổ thứ nhất đến cửa sổ thứ mười một, không tìm thấy chàng trai. Đến cửa sổ thứ mười hai, cũng không tìm thấy, công chúa sợ hãi và tức giận hết sức, sập cửa mạnh đến mức tất cả các kính cửa đều vỡ tan ra hàng nghìn mảnh và lâu đài rung lên.

Trở về buồng mình, nàng thấy con thỏ biển ở dưới mái tóc mình, nàng tóm lấy nó, ném xuống đất và kêu lên :

- Hãy xéo khỏi mắt tao.

Con vật đi tìm người lái buôn, cả hai vội vàng đi ra suối, lội xuống tắm và hiện lên nguyên hình cũ. Chàng trai cám ơn cáo và nói :

- So với cáo, quạ và cá chỉ là những kẻ khờ dại. Cáo biết mánh khóe , đúng là thế thật.

Chàng trai đi thẳng đến lâu đài. Công chúa đã đợi chàng ở đó, chịu theo số phận. Lễ cưới được cử hành. Họ trở thành vua và hoàng hậu trị vì thiên hạ. Chàng không bao giờ kể cho công chúa biết là đã trốn ở đâu và ai đã giúp chàng. Nàng thì tin là chàng đã thắng cuộc bằng chính tài năng của mình. Nàng rất kính nể chàng, và nghĩ bụng : “Chàng hơn ta nhiều”.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:05  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Chú Hanh lười biếng




Grim




Hanh lười biếng. Chú chẳng làm gì khác ngoài việc hàng ngày chăn một con dê ở ngoài cánh đồng. Ấy vậy mà chiều tối, hết ngày về nhà, chú còn thở ngắn than dài :

- Chăn dê ngoài đồng cả năm, cho đến tận cuối thu, quả là một gánh nặng, một việc vất vả. Giá mà có thể nằm ngủ lại đi một nhẽ ! Nhưng không ! Luôn luôn phải mở mắt ra canh, sợ dê nó phá hoại cây non, nhảy qua rào vào vườn hoặc từ đó chạy trốn. Thế thì còn là thế nào nghỉ ngơi được một chút cho thoải mái !

Chú ngồi xuống suy nghĩ tìm cách trút được cái gánh nặng. Một thời gian dài, chú không tìm được ra cách gì. Nhưng rồi một hôm, bất chợt trong đầu lóe ra một ý như là cái màng che mắt rơi xuống. “Mình biết phải làm gì rồi ! - Chú kêu lên – Mình chỉ cần lấy cô Tô-ri-nô đẫy đà thôi ! Cô ta cũng có một con dê. Cô ta sẽ chăn con dê của mình cùng với con dê của cô ả. Như vậy, mình sẽ không còn phải tự mình làm khổ mãi nữa”.

Hanh bèn đứng dậy và cử động đôi chân, đôi tay mệt mỏi. Chú tạt ngang đường (đường cũng không xa) mà đến nhà bố mẹ cô Tô-ri-nô đẫy đà và xin cưới cô gái chăm chỉ và đức hạnh. Bố mẹ cô không trừ : “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, hai cụ nghĩ bụng và nhận lời ngay lập tức. Thế là cô Tô-ri-nô đẫy đà thành vợ chú Hanh và chăn cả hai con dê. Chú Hanh sống thoải mái, không còn phải nghĩ ngợi về công ăn việc làm nữa mà chỉ còn nghỉ ngơi do cái mệt của lười biếng gây ra. Thỉnh thoảng, chú đi chăn cừu cùng cô và bảo cô :

- Tôi chỉ làm để hưởng được cái thú nghỉ ngơi hơn thôi. Nếu không sẽ không tận hưởng được cái thú đó.

Cô Tô-ri-nô đẫy đà cũng lười không kém gì chồng :

- Anh Hanh yêu quý của em ơi, một hôm cô bảo anh, tại sao chúng ta sống thêm cơ cực khi không cần thiết, để phí hoài ngày xanh ? Hai con dê của chúng mình sáng nào cũng kêu be be đánh thức chúng mình dậy giữa lúc ngủ đang ngon. Tại sao chúng mình không đổi cho bác hàng xóm lấy một đõ ong ? Chúng mình sẽ chỉ việc đặt đõ ong đằng sau nhà, ở một góc có nắng và không còn mất công chăm sóc gì nữa. Không cần phải chăn ong hoặc dẫn chúng ra đồng. Ong tự bay đi, tự tìm đường về nhà và tự làm ra mật, ra không cần phải bận tâm đến

- Em đúng là một người đàn bà thông minh, Hanh nói, chúng ta sẽ thực hiện ý đó tức thì. Cũng phải nói thêm là mật ong ngon hơn và bổ hơn sữa dê, lại để được lâu hơn.

Bác hàng xóm bằng lòng đổi cho họ đõ ong lấy hai con dê. Không mệt mỏi, ong bay đi bay lại từ sớm đến tối làm đầy đõ mật ngon. Khi mùa thu đến, Hanh thu hoạch được một vò mật đầy. Hai vợ chồng đặt vò mật trên cái giá ở đầu giường. Vì sợ có kẻ lấy trộm được hoặc chuột bò đến ăn. Tô-ri-nô kiếm một cái gậy to để ở gầm giường. Như vậy, cô có thể với được cây gậy để đuổi những vị khách không mời mà đến, mà không phải nhổm dậy. Chú Hanh lười biếng không ra khỏi giường trước lúc giữa trưa. “Kẻ nào dậy sớm, chú tự nhủ, là phung phí của cải”.

Một buổi sáng, mặt trời đã lên cao mà chú Hanh vẫn còn nằm ườn trong chăn để ngủ cho đỡ mệt vì ngủ. Chú bảo vợ :

- Đàn bà là hay thích ngọt, em là chúa thích mật. Trước khi em ăn hết mật, tốt nhất là ta đem đổi mật lấy một con ngỗng con.

Tô-ri-nô cãi lại ngay :

- Nhưng phải đợi khi nào ta có đứa con để nó chăn ngỗng rồi hãy đổi. Tôi là tôi không chịu chăn ngỗng cho mệt và mất sức khi không cần thiết.

- Em tưởng là con nó sẽ chăn ngỗng à ? – Hanh nói - thời buổi này, trẻ con không vâng lời nữa đâu. Chúng chỉ làm theo ý chúng vì chúng cho là chúng khôn hơn bố mẹ. Ấy cứ y như là cái thằng đầy tớ nọ phải đi tìm bò mà lại chạy theo ba con sáo !

- Ồ , nó cứ liệu, nếu nó không làm theo lời em ! Em sẽ lấy gậy nện cho nó túi bụi. Rồi anh sẽ thấy, anh Hanh ạ, cô hăng lên hét và vớ lấy cái gậy dùng để đuổi chuột, em sẽ đánh nó thế này.

Cô khua cái gậy và chẳng may va phải cái vò mật ông đặt ở trên đầu giường. Vò va vào tường vỡ thành nghìn mảnh. Mật ong ngon lành chảy khắp mặt đất.

- Đấy là ngỗng mẹ và ngỗng con – Hanh nói – Không cần phải chăn ngỗng nữa. Cũng còn may là vò mật không rơi xuống đầu. Chúng ta thật quả còn mừng là số hãy còn may.

Nhìn thấy một ít mật ong còn dính ở mảnh vò vỡ, chú nói thêm một cách vui vẻ :

- Nhà nó ạ, giờ chúng ta nhấm nháp chút mật còn sót lại này, rồi nghỉ ngơi cho quên lúc khủng khiếp vừa rồi. Chúng ta có dậy muộn hơn thường ngày một chút cũng không hề gì. Ngày cũng đủ dài cơ mà !

- Đúng rồi – Tô-ri-nô trả lời – làm tốt thì lúc nào làm chả được. Anh biết chuyện con ốc sên đi dự đám cưới rồi chứ. Nó lên đường và đến nơi thì đã là lúc đứa con chịu lễ rửa tội. Đến trước nhà, nó va vào tường, bèn nói : “Vội vàng là không hay”.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:06  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Người da gấu



Grim





Xưa có một anh thanh niên đi lính, rất dũng cảm, luôn luôn xung phong dưới mũi tên hòn đạn. Trong thời chiến, mọi việc đều ổn nhưng đến thời bình, anh bị thải hồi. Tên đại úy chỉ huy bảo anh tùy ý muốn đi đâu thì đi. Cha mẹ chết cả, quê hương không có, anh phải đến xin các anh cho ở nhờ, đợi đến khi nào lại có chiến chinh. Nhưng các anh đều nhẫn tâm nói:

- Chúng tôi không thể giúp chú được, chú phải tự lo liệu lấy thôi.

Anh lính có độc một khẩu súng, vác lên vai ra đi, anh đến một bãi đất hoang rộng, chỉ có mỗi một lùm cây. Anh buồn bã ngồi xuống gốc cây, nghĩ tủi thân: - Mình không có tìên, chỉ biết nghề đi lính, nay thiên hạ thái bình, chúng đuổi mình về, trông chừng chết đói đến nơi.

Chợt nghe tiếng động, anh ngoảnh cổ lại thì thấy ở bên mình có một người lạ mặt, mặc áo xanh, trông lịch sự, chỉ phải có một cái chân ngựa ghê tởm. Người ấy nói:

- Ta biết anh thiếu gì rồi. Anh cần bao nhiêu tiền ta cũng cho, nhưng trước hết ta muốn biết anh có thật là tay gan dạ không vì ta không muốn tiêu uổng tiền.

Anh đáp:

- Đã làm lính lại còn nhát à? Ông cứ việc thử thách tôi đi.

- Được lắm, anh hãy trông lại đằng sau.

Người lính ngoảnh lại thì thấy một con gấu to gầm gừ chạy đến. Anh thét:

- Ái chà, ông ngoáy cho mày buồn lỗ mũi, để mày hết cảu nhảu nhé.

Rồi anh ngắm bắn trúng mũi gấu, gấu ngã lăn ra.

Người lạ nói:

- Ta công nhận anh gan dạ, nhưng còn điều kiện khác nữa.

Người lính biết rõ đây là quỷ, bèn đáp:

- Muốn điều kiện gì cũng được, miễn là không mất phần hồn.

Người áo xanh nói:

- Cái đó tùy anh. Trong bảy năm, cấm anh sờ đến nước, chải đầu, cạo râu, cắt móng chân móng tay, cầu Chúa; phải mặc chiếc áo ngoài và chiếc áo khoác ta đưa cho đây. Trong thời gian đó, nếu anh chết thì anh là người của ta; nếu anh sống thì anh sẽ được tự do và giàu có suốt đời.

Người lính nghĩ đến thân mình cùng khổ, đã bao phen vào sinh ra tử, nên cũng nhận liều. Con quỷ cởi áo xanh đưa cho anh mà nói:

- Anh mặc áo này thì trong túi lúc nào cũng có vàng.

Rồi nó lột da gấu và nói:

- Da gấu này, anh sẽ trùm làm áo khoác và làm giường nằm, không được nằm giường nào khác. Từ nay anh mặc áo này, nên ta đặt tên anh là “Da Gấu”.

Nói xong con quỷ biến mất.

Người lính mặc áo, thò tay vào túi thấy tiền thì biết là con quỷ nói đúng. Anh bèn khoác da gấu, đi chu du thiên hạ, hưởng mọi thú vui, không bỏ qua cái gì khoái trá, tiêu tiền như rác.

Năm đầu, người anh trông còn tàm tạm được, nhưng đến năm thứ hai, trông anh như một con quái: tóc mọc che gần khắp mặt, râu xồm xồm xoàm như chổi xể, móng chân móng tay y như nanh vuốt, mặt cáu ghét giá như làm đất trồng rau cũng được. Ai thấy anh cũng tránh; nhưng anh đi đến đâu người ta cũng vẫn xếp chỗ cho ở, vì anh trả nhiều tiền và anh vung tiền ra làm phúc cho người nghèo để người ta cầu nguyện cho anh được sống qua thời hạn bảy năm.

Năm thứ tư, anh đến một quán trọ. Chủ quán không muốn cho anh trọ thậm chí chuồng ngựa cũng không cho ở, e rằng ngựa trông thấy anh thì khiếp.Thế nhưng khi “Da Gấu” móc ở túi ra một nắm tiền vàng thì chủ quán xiêu lòng, cho anh ở một buồng phía sau, nhưng cấm anh không được ló mặt ra cho người khác thấy để quán trọ của hắn khỏi mang tiếng.

Một buổi tối, Da Gấu đang ngồi trong buồng, mong mỏi bảy năm chóng qua, thì nghe thấy tiếng khóc ở buồng bên cạnh. Anh vốn tốt bụng, chạy ra mở cửa thì thấy một cụ già tay ôm đầu khóc lóc thảm thiết. Da Gấu đến gần cụ già. Khi thấy anh, cụ đứng phắt dậy định chạy trốn. Nhưng nghe thấy anh nói tiếng người, cụ mới yên tâm. Da Gấu ngọt ngào dỗ cụ, cụ kể lể cho anh nghe là cụ đã tiêu hết vốn liếng, bây giờ cụ và ba cô con gái lâm vào cảnh nghèo khổ. Cụ không có tiền trả nhà trọ nên bị người ta bỏ tù.

Da Gấu nói:

- Nếu chỉ là vấn đề tiền, thì cháu có thừa thãi để giúp cụ.

Anh cho gọi chủ quán đến, trả tiền trọ cho ông cụ, lại còn cho ông cụ đáng thương thêm một túi vàng đầy.

Thế là ông cụ hết lo, nhưng không biết lấy gì trả ơn anh. Cụ nói:

- Anh hãy đến nhà tôi. Các con gái tôi rất đẹp, anh muốn lấy đứa nào thì lấy. Nếu nó biết anh là ân nhân của tôi thì tất nó không từ chối đâu. Tuy anh trông có vẻ kỳ quặc thật, nhưng nó sẽ biết cách chải chuốt cho anh dễ coi.

Da Gấu thích lắm, đi theo cụ già.

Cô gái lớn trông thấy anh, khiếp sợ, rú lên và chạy trốn. Cô thứ hai không chạy, nhìn anh từ đầu đến chân rồi nói:

- Con chịu thôi, ai lại lấy một con vật không có mặt người làm chồng được? Gấu cạo lông, mặc áo như người ở đám xiếc hôm nọ còn thích hơn, vì ít nhất nó cũng diện áo kỵ binh và đeo bao tay trắng. Trông nó chỉ xấu xí, nhưng rồi cũng quen mắt.

Con gái út nói:

- Thưa cha, người đã cứu cha trong lúc hoạn nạn hẳn là người tốt. Nếu đã hứa trả ơn mà gả con gái cho người ta, thì cha phải giữ lời hứa.

Tiếc thay mặt Da Gấu bẩn thỉu và lông lá, nên nhìn không thấy vẻ vui mừng đang tràn ngập trong lòng anh. Anh rút nhẫn ở ngón tay, bẻ làm đôi, đưa cho người yêu một nửa. Anh khắc tên anh vào nửa đưa cho nàng, dặn nàng giữ kỹ. Còn nửa nhẫn anh giữ, thì anh khắc tên người yêu. Khi từ giã người yêu, anh dặn:

- Em ơi, anh còn phải đi chu du thiên hạ ba năm nữa. Nếu anh về thì chúng ta tổ chức lễ cưới. Nếu anh không về thì là anh đã chết, em được tự do lấy chồng khác.

Dặn xong, anh ra đi.

Cô dâu đáng thương mặc đồ tang. Mỗi khi nghĩ đến anh, cô lại giàn giụa nước mắt; còn hai chị thì dè bỉu mỉa mai cô.

Chị lớn nói:

- Cẩn thận kẻo mà nát mất tay khi nó giơ cẳng bắt tay đấy!

Chị thứ hai nói:

- Liệu đấy. Gấu thích của ngọt, nếu nó thích cô, nó sẽ xơi cô mất.

Chị cả nói:

- Nhất nhất cô phải chiều theo ý nó, không thì nó cảu nhảu đấy!

Chị thứ hai lại nói:

- Đám cưới sẽ vui lắm nhỉ. Gấu là nhảy chúa giỏi.

Cô em mặc cho hai chị nói, không hề nao núng chút nào.

Còn Da Gấu thì vẫn đi lang thang đây đó làm điều thiện, bố thí cho người nghèo rất nhiều.

Ngày cuối cùng năm thứ bảy, Da Gấu lại đến ngồi ở lùm cây giữa bãi hoang. Một lát sau, anh nghe thấy gió ào ào rồi con quỷ hiện lên hầm hầm nhìn anh. Nó vứt trả anh áo cũ và đòi anh cái áo xanh.

Da Gấu nói:

- Hẵng hượm, anh phải tắm rửa cho tôi sạch sẽ đã.

Bất đắc dĩ, con quỷ phải lấy nước tắm cho Da Gấu, và chải đầu, cắt móng cho Da Gấu. Da Gấu lại ra vẻ một chiến sĩ anh dũng và đẹp trai hơn trước nhiều. Khi con quỷ đã đi xa, anh thấy mình như trút được một gánh nặng.

Anh ra tỉnh mua một chiếc áo nhung đẹp, rồi ngồi một cỗ xe bốn ngựa trắng đi về nhà vợ. Không ai nhận ra anh. Ông bố vợ tưởng anh là một võ quan cao cấp, đưa anh vào buồng ba cô gái. Hai cô chị ngồi hai bên, mời anh ngồi giữa, rồi rót rượu, lấy món ngon nhất mời anh. Hai cô chưa từng thấy người đàn ông nào đẹp như anh. Cô em mặc tang phục, ngồi trước mặt anh, cúi gầm mặt xuống không nói năng gì. Khi anh ướm hỏi ông cụ có thuận gả một cô cho anh không, thì hai cô chị đứng phắt dậy, chạy vào buồng sắm sửa, vì cô nào cũng tưởng là mình sẽ được chọn làm vợ.

Khi người khách lạ còn lại một mình với cô em, thì người ấy lấy nửa nhẫn trong túi ra, bỏ vào một cốc đầy rượu vang và đưa cốc mời cô. Cô đỡ lấy cốc, uống cạn, và khi thấy nửa nhẫn ở đáy cốc, cô hồi hộp quá lấy nửa nhẫn đeo ở cổ ra chắp với nửa kia thì thấy ăn khớp như in.

Da Gấu liền nói:

- Em ơi, anh là chồng chưa cưới của em đây mà. Trước kia, anh đội lốt gấu đến đây, nay anh lại mang hình người, sạch sẽ như xưa.

Rồi anh ôm chầm lấy cô hôn.

Bấy giờ, hai cô chị ăn mặc thật sang bước vào. Khi rõ chuyện công tử đẹp trai này là Da Gấu khi trước, hai cô tức giận vùng vằng bỏ đi.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:13  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Chú bé nghèo dưới nấm mồ


Grim




Xưa có một chú bé chăn dê nghèo, bố mẹ đều chết cả, quan trên đưa chú cho một nhà giàu nuôi dạy. Song vợ chồng nhà này rất cay nghiệt. Của cải đã có thừa mà họ vẫn tham lam bủn xỉn. Hễ có ai ăn mất của họ một tí bánh mì là họ đã tức giận rồi. Chú bé phải làm cật lực mà được ăn rất ít mà thường là ăn đòn nhiều hơn.

Một hôm, chủ giao cho chú trông con gà mái và một đàn gà con. Gà mẹ đuổi con lạc qua một bụi tầm xuân. Bỗng một con diều hâu từ trên cao bổ xuống, quặp lấy gà mẹ bay đi mất. Chú bé lấy hết hơi sức gào: "Kẻ cắp! kẻ cắp! Bắt lấy quân kẻ cắp!". Nhưng nào có ích gì. Diều hâu đâu có chịu tha mồi về trả. Chủ nghe tiếng kêu vội chạy ra. Lúc biết là mất gà, hắn ta giận điên lên đánh chú bé tới tấp, đến nỗi mấy ngày sau chú vẫn không nhúc nhích được.

Giờ chú phải trông đàn gà vắng mẹ. Khó khăn càng nhiều hơn vì lũ gà cứ bỏ chạy lung tung. Chú bèn nghĩ ra một cách, chú lấy dây buộc chằng lũ gà lại với nhau. Chú tưởng thế là diều hâu không thể bắt được một con gà nào nữa. Nhưng chú đã lầm to, mấy hôm sau, chú vừa ngủ thiếp đi vì mệt và đói thì con chim độc ác kia lại đến, sà xuống bắt một con gà con. Vì con nọ đã buộc chằng vào con kia nên diều hâu vớ được trọn cả một đàn. Nó tha tít lên ngọn cây
nuốt hết sạch. Vừa khi ấy tên nhà giàu cũng về tới nhà. Thấy tai họa xảy ra, hắn phát khùng, lại đánh chú bé một trận không tiếc tay, đến nỗi chú phải nằm liệt giường mấy ngày liền.

Khi chú đã đi lại được, hắn bảo: "Mày đần độn quá không thể nào trông coi cái gì hết, thôi để sai vặt vậy".

Hắn giao cho chú một làn nho đến biếu viên thẩm phán, kèm theo một bức thư. Giữa đường, vừa đói vừa khát, chịu chẳng nổi, chú bé đánh liều ăn mất hai chùm nho. Lúc chú đem nho đến nhà tên thẩm phán, viên quan này bóc thư ra xem, rồi lại thấy thiếu mất hai chùm nho liền bảo:

- Thiếu mất hai chùm.

Chú bé thật thà thú nhận là giữa đường đói và khát quá chú đã trót ăn mất số nho đó rồi. Viên thẩm phán viết thư cho người nông dân đòi phải nộp đủ số nho như đã viết trong thư.

Lần này chú bé lại phải đem nho với một lá thư khác đi. Và dọc đường, đói khát quá, cực chẳng đã, cũng như lần trước, chú lại ăn mất hai chùm. Song lần này, để giấu bức thư khỏi lộ, chú đã lục làn lấy thư ra, chặn dưới một hòn đá rồi ngồi đè lên trên. Thế mà viên thẩm phán vẫn cứ hỏi chú về số nho bị thiếu. Chú kêu lên: "Trời ơi, sao mà ông biết được! Đến bức thư cũng không thể biết chuyện ấy cơ mà, vì tôi đã chặn một hòn đá lên rồi".

Viên thẩm phán phì cười về sự ngây ngô của chú. Ông ta biên thư cho tên nhà giàu khuyên hắn nên đối xử tốt hơn với chú bé nghèo, phải cho chú ăn uống đầy đủ và dạy cho chú biết phân biệt phải trái. Con người nhẫn tâm nói: "Rồi ta sẽ dậy cho mày phân biệt. Nếu mày muốn ăn thì mày cũng phải chịu làm. Mày làm sai trái, ta sẽ dạy mày bằng roi vọt".

Hôm sau hắn giao cho chú bé một việc khó. Chú phải băm mấy bó rơm làm thức ăn cho ngựa. Hắn đe chú: "Trong năm tiếng nữa, ta trở về, nếu mày vẫn chưa băm xong chỗ rơm này thì ta sẽ đánh cho mày một trận bò lê bò la". Hắn cùng vợ, đầy tớ trai, đầy tớ gái đi phiên chợ hàng năm và chỉ để lại cho chú bé có một mẩu bánh mì con.

Chú bé ngồi trên đống rơm ra sức băm. Được một lúc thấy nóng, chú cởi áo ngoài ra quẳng lên đống rơm. Trong bụng chỉ lo làm không kịp, chú ra sức băm. Giữa lúc hăng hái, chú quên khuấy băm nát cả tấm áo của chú lẫn trong rơm. Đến lúc nhớ ra thì đã muộn rồi, không còn làm thế nào được nữa. Chú kêu lên: "Trời ơi, chết tôi rồi. Con người cay nghiệt kia có bao giờ dọa suông đâu! Hắn về mà thấy mình làm thế này thì hắn sẽ đánh mình chết mất. Thà tự tử trước còn hơn".

Đã có một lần chú bé nghe thấy mụ chủ bảo: "Ở dưới gầm giường có niêu thuốc độc". Sự thật mụ ta chỉ nói để dọa những kẻ tham ăn vì niêu đó đựng mật ong. Chú mới bò vào gầm giường lôi cái niêu ra đánh hết nhẵn. Chú tự bảo: "Không hiểu sao người ta vẫn bảo cái chết là cay
đắng mà mình ăn lại chỉ thấy ngọt. Trách nào mụ chủ cứ muốn được chết".

Chú ngồi lên cái ghế, bình tĩnh đợi chết. Nhưng chú không thấy mình lả đi, trái lại nhờ món ăn rất bổ kia, chú lại cảm thấy mình khỏe ra. Chú tự bảo: “Chắc không phải là thuốc độc. Song mình còn nhớ có lần lão chủ bảo: Trong hòm quần áo có chai thuốc diệt ruồi. Nhất định nó là thuốc độc thật và phải uống thứ thuốc đó mới chết được”. Song đó cũng không phải là thuốc diệt ruồi thật mà chính là rượu nho.

Chú lôi cái chai ra tu sạch. Chú bảo: "Thứ thuốc độc này cũng ngọt". Nhưng chỉ một lúc sau rượu bắt đầu ngấm. Chú thấy người ngây ngất lại nghĩ bụng: chắc chết đến nơi rồi. Chú tự nhủ: "Có lẽ mình sắp chết, phải đi ngay ra nghĩa địa tìm sẵn lấy một cái huyệt mới được". Chú bước đi lảo đảo, đến nghĩa địa nằm trong một cái huyệt mới đào. Mỗi lúc, chú thấy mình càng thêm choáng váng.

Gần đó có một quán ăn, trong quán đang có đám cưới. Nghe tiếng nhạc, chú bé cứ ngỡ mình đã lên tới thiên đàng. Sau đó chú lịm đi hoàn toàn. Chú bé không bao giờ tỉnh lại nữa, hơi rượu nóng và sương đêm giá buốt làm chú chết thật. Chú mãi mãi ở lại nơi chú đã nằm xuống.

Tên nhà giàu nghe tin chú bé chết sợ lắm, hắn chỉ lo bị tòa án xét xử. Hắn lo sợ quá ngã xuống đất ngất đi. Mụ vợ khi ấy đang rang lúa mạch dưới bếp vội chạy lên tìm cách chạy chữa cho chồng. Nào ngờ ngọn lửa bốc vào lòng chảo, rồi cháy lan ra khắp nhà. Vài giờ sau chỉ còn lại một đống tro tàn. Những năm cuối cùng của đời họ, cả hai người đều bị lương tâm cắn rứt và sống rất nghèo nàn cực khổ.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:15  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Học rùng mình


Grim





Xưa có người có hai con trai. Con trai lớn thông minh, khôn ngoan, gặp khó khăn đến đâu cũng biết đường xoay xở. Còn em thì ngu xuẩn, không biết gì, học gì cũng chẳng vào. Ai cũng phải kêu: "Thằng này chỉ ăn hại bố". Việc gì cũng đến người anh làm cả. Nhưng anh lại có tính dát. Tối đến, bố sai đi lấy cái gì mà phải qua bãi tha ma hay nơi nào rùng rợn là anh ta từ chối: "Con chịu thôi, bố ạ. Con run lắm, con không đi đâu".

Buổi tối, người nhà ngồi sưởi thường kể những chuyện sởn vẩy ốc, thỉnh thoảng có người nói: "Rùng cả mình". Người em ngồi một xó chẳng hiểu gì nghĩ bụng:

- Họ cứ nói mãi: "Rùng cả mình! Rùng cả mình!". Mình chẳng thấy rùng mình gì cả. Hẳn đó là một thuật mà mình không biết tí gì.

Một hôm, ông bố bảo người em:

- Này, bây giờ mày đã lớn, lại khỏe mạnh, con phải đi học lấy một nghề mà kiếm ăn. Trông anh con đấy, nó chịu khó như thế, mà con thì chả được việc gì.

Anh ta đáp:

- Thưa bố, con định học lấy một nghề. Con không biết rùng mình. Nếu bố bằng lòng thì con xin học nghề ấy.

Người anh nghe thấy em nói thế, cười và nghĩ thầm:

- Trời ơi, thép xấu thì uốn sao thành được lưỡi câu.

Ông bố thở dài, nói:

- Chắc con sẽ học được rùng mình thôi, nhưng nghề ấy thì kiếm ăn làm sao được.

Sau đó ít lâu, một hôm, người coi nhà thờ đến chơi nhà. Ông bố kể cho khách nghe nỗi khổ tâm của mình vì con út ngu xuẩn, không biết làm gì, học gì cũng không vào. Ông nói:

- Đấy, ông xem, tôi hỏi nó muốn học nghề gì kiếm ăn, thì nó bảo muốn học rùng mình.

Ông khách đáp:

- Nếu chỉ học có thế thôi, thì tôi xin dạy cho nó ngay. Ông cho nó lại đằng tôi, tôi làm cho nó bớt ngu đi cũng chóng thôi.

Ông bố những mong cho con hết ngớ ngẩn, đồng ý ngay. Thế là chú ngốc đến nhà thờ làm công việc kéo chuông.

Vài hôm sau, vào khoảng nửa đêm, thầy đánh thức tớ dậy sai lên gác kéo chuông. Ông nghĩ bụng: "Mày sắp học được rùng mình đến nơi đây". Ông lẻn lên gác chuông trước. Khi anh ngốc trèo lên đến nơi, quay lại sắp cầm dây chuông, thì thấy một cái bóng trắng trên cầu thang, gần chỗ treo chuông. Anh ta quát lên:

- Ai đó?

Nhưng cái bóng cứ đứng im, không đáp mà cũng không nhúc nhíc. Anh ta lại quát:

- Muốn sống nói mau, không thì bước ngay! Đêm khuya, có việc gì mà đến đây?

Nhưng người coi nhà thờ vẫn không động đậy để anh ngốc tưởng là ma. Anh ngốc lại thét lên:

- Mày đến đây làm gì? Nếu mày là người ngay thì nói lên, nhược bằng không thì tao quẳng xuống chân cầu thang bây giờ.

Người coi nhà thờ nghĩ bụng: "Nó chẳng dám đâu", nên cứ đứng im. Hỏi đến lần thứ ba cũng không thấy trả lời, anh ngốc lấy đà, du con ma xuống chân cầu thang. Ma lăn qua mười bậc, rồi nằm sóng sượt ở một xó. Anh ngốc kéo chuông xong, lẳng lặng đi xuống
nằm ngủ kỹ.

Vợ người coi nhà thờ chờ mãi không thấy chồng về, đâm lo, đi đánh thức anh ngốc dậy hỏi:

- Mày có biết ông nhà ở đâu không? Ông lên gác chuông trước mày đấy mà!

Anh ta đáp:

- Thưa bà không ạ. Nhưng ở gần chỗ gác chuông thấp thoáng có bóng người, con hỏi mãi không nói, đuổi cũng không đi, con cho là ăn trộm, liền đẩy xuống chân cầu thang. Bà thử lên xem có phải ông nhà không. Nếu phải thì con thật ân hận.

Vợ vội lên thì thấy chồng gẫy chân nằm ở xó cầu thang rên rỉ. Bà cõng chồng xuống, rồi đến nhà bố chú ngốc, làm om lên:

- Con ông gây tai vạ, nó đẩy ông nhà tôi xuống chân cầu thang, làm gãy mất một chân. Xin ông rước đồ ăn hại ấy ra khỏi nhà tôi đi.

Ông bố choáng người chạy bổ đến, mắng con một trận rồi bảo:

- Sao mày lại nghịch quái ác thế? Quỉ ám mày hay sao?

Con đáp:

- Thưa bố, bố hãy nghe con. Quả thật con oan, giữa đêm mà ông ấy đứng đó như tính chuyện gì đen tối, con không biết là ai. Con đã bảo ông ấy ba lần là hãy lên tiếng nếu không thì đi đi cơ mà.

Ông bố đáp:

- Trời ơi, mày chỉ làm khổ tao. Bước đi cho khuất mắt tao, tao không muốn thấy mặt mày nữa.

Con nói:

- Con xin vâng lời bố. Nhưng bố hãy để sáng trời đã. Con sẽ đi học thuật rùng mình để kiếm ăn.

Bố nói:

- Mày muốn học nghề gì thì mặc xác mày. Đây tao cho mày năm mươi đồng tiền mà đi chu du thiên hạ, nhưng chớ có cho ai biết là quê mày ở đâu và tên bố mày là gì, mà nhọ mặt tao.

Con nói:

- Thưa bố, bố muốn sao, con xin làm vậy. Nếu chỉ có thế thì cũng dễ nhớ thôi.

Anh ta bỏ vào túi năm mươi đồng tiền, rồi sáng sớm ra đường cái đi, lẩm bẩm luôn mồm: "Ước gì ta biết được rùng mình, ước gì ta học được rùng mình...". Một người đánh xe đi qua nghe thấy, liền hỏi:

- Tên anh là gì?

- Tôi không biết.

Người đánh xe lại hỏi:

- Anh ở đâu đến?

- Tôi không biết.

- Cha anh là ai?

- Tôi không thể nói được.

- Anh cứ luôn mồm lẩm bẩm cái gì thế?

- Ấy, tôi muốn học rùng mình mà chẳng ai dạy cho.

- Thôi đừng nói lẩn thẩn mãi, đi theo tôi, tôi tìm chỗ cho mà ngủ.

Hai người cùng đi, đến tối thì tới một quán trọ, định ngủ lại đó. Vào hàng, anh ta lại nói bô bô lên:

- Ước gì tôi biết được rùng mình, ước gì tôi học được rùng mình.

Chủ quán nghe nói bật cười bảo:

- Mày thèm khát cái đó thì đến đây vừa đúng lúc đấy.

Vợ chủ quán ngắt lời chồng:

- Chà, mặc người ta. Lắm cu cậu ngổ ngáo đã toi mạng. Nếu đôi mắt xinh đẹp kia mà không còn được nhìn ánh sáng nữa thì thật đáng tiếc.

Anh ta nói:

- Tôi đã cất công ra đi là để cốt học môn ấy, thì dù khó đến đâu tôi cũng chẳng quản.

Anh ta quấy rầy mãi, ông chủ quán phải kể cho nghe rằng ở gần đây có một lâu đài có ma, chỉ ngủ đấy ba đêm liền khắc biết thế nào là rùng mình. Vua đã hứa ai cả gan làm việc ấy, sẽ gả công chúa cho. Trong lâu đài lại có cả vàng bạc châu báu do mà quỉ giữ ,
ai lấy được tha hồ mà giàu. Đã có nhiều người vào, nhưng không thấy một ai trở ra.

Sáng hôm sau, anh đến yết kiến vua, tâu: "Nếu bệ hạ cho phép, tôi xin ngủ ba đêm ở lâu đài có ma". Vua ngắm anh ta hồi lâu, thấy anh ta có duyên, bèn bảo:

- Ta cho phép nhà ngươi mang theo vào lâu đài ba đồ vật chứ không được mang sinh vật.

Anh nói:

- Tôi xin cái gì để đốt lửa sưởi, một bàn thợ tiện và một ghế thợ chạm có dao.

Ban ngày, vua sai người mang những thứ đó đến lâu đài. Chập tối thì anh đến, đốt một đống lửa to trong một gian phòng, đặt dao cạnh ghế thợ chạm, và ngồi bên bàn thợ tiện. Anh nói:

- Ước gì ta biết rùng mình! Nhưng ở đây rồi cũng đến toi công thôi.

Nửa đêm, anh định thổi cho lửa bùng lên, chợt thấy tiếng kêu ở góc buồng: "Meo! Meo! Bọn mình rét đến buốt xương". Anh nói:

- Đồ chúng bay ngốc quá! Sao lại kêu như thế? Có rét thì lại đây mà sưởi.

Anh vừa dứt lời thì có hai con mèo to tướng nhảy vọt đến ngồi chồm chỗm hai bên anh, quắc mắt bừng như lửa nhìn anh một cách dữ tợn. Lát sau, chúng sưởi đã ấm người, bảo anh:

- Mày có muốn chơi bài không?

Anh đáp:

- Có chứ. Nhưng các cậu hãy cho tớ xem chân đã.

Hai con mèo giơ móng ra. Anh nói:

- Ôi chao, móng các cậu dài quá. Hẵng gượm, để tớ cắt bớt đi cái đã.

Thế là anh tóm cổ chúng, đặt chúng lên ghế thợ chạm và cho chân chúng vào kẹp, rồi nói:

- Chân các cậu làm tớ mất cả hứng chơi bài với các cậu.

Anh giết chúng, rồi quẳng xác qua cửa sổ xuống nước. Anh vừa giết chúng xong, sắp quay về ngồi bên lửa, thì thấy rất nhiều mèo đen, chó mực đeo xích sắt nung đỏ, từ bốn bề xông đến, mỗi lúc một đông, anh không biết đứng vào chỗ nào nữa. Chúng cất tiếng kêu
ghê gớm, chực dập đống lửa cho tắt. Anh để mặc chúng làm ồn một lúc. Nhưng khi anh thấy chúng hăng quá, anh bèn lấy dao ra, xông vào quát lên: "Đồ súc sinh cút ngay!". Một số con chạy trốn, anh giết những con còn lại, quẳng xác qua cửa sổ. Rồi anh lại về chỗ đống lửa, thổi lên để sưởi. Lát sau, anh buồn ngủ díp mắt lại. Anh nhìn quanh thì thấy ở góc phòng có một cái giường to. Anh nói: "May quá", rồi lên giường nằm. Anh vừa nhắm mắt thì thấy giường rung chuyển chạy khắp lâu đài. Anh nói:

- Được lắm, cứ việc mà tế lên nữa đi.

Giường chạy nhanh như xe tứ mã nhảy qua ngưỡng cửa cầu thang và xông vào các phòng. Bỗng giường vấp, làm đổ lổng chổng mọi thứ lên người anh. Anh gỡ mình ra, quẳng cả chăn gối, nói: "Bây giờ đứa nào muốn nằm giường thì đi mà nằm!", rồi lại bên đống lửa ngủ đến sáng.

Sớm hôm sau, vua đến lâu đài, thấy anh nằm dài dưới đất ngỡ là anh đã bị ma giết. Vua than:

- Anh chàng xinh trai này chết thật uổng quá.

Anh nghe tiếng nhổm dậy, nói:

- Tâu bệ hạ, chưa đến nỗi thế ạ.

Vua ngạc nhiên đên vui mừng, hỏi anh về chuyện xảy ra đêm qua. Anh đáp:

- Tâu bệ hạ rất bình yên. Thế là được một đêm, còn hai đêm nữa rồi cũng đến thế thôi ạ.

Khi anh về quán trọ, chủ quán trố mắt ra nhìn, nói:

- Tôi không ngờ anh còn sống. Thế anh đã học được rùng mình chưa?

Anh đáp:

- Khổ lắm, chỉ mất công toi. Giá ai dạy cho tôi thì hay quá.

Tối đến, anh lại đên tòa lâu đài cổ để ngủ đêm thứ hai. Anh đến ngồi bên lửa rồi lại nói lải nhải: "Ước gì ta biết rùng mình!".

Nửa đêm, anh thấy tiếng động, trước còn khe khẽ, rồi to dần, sau rõ hẳn. Im một lát, sau có tiếng thét lớn, một nửa thân người rơi từ ống khói lò sưởi xuống trước mặt anh. Anh kêu lên:

- Còn nửa nữa đâu?

Thế là có tiếng ầm ầm, rồi nửa nữa hiện ra, đồng thời có những tiếng hú và tiếng rên. Anh nói:

- Chờ một tí, rồi tao thổi lửa cho mà sưởi.

Sau khi đã nhóm lửa, anh ngoảnh mặt lại thì thấy hai nửa người ban nãy đã liền lại với nhau thành một người ghê gớm ngồi vào chỗ của anh. Anh nói:

- Không phải là chuyện thách thức nhau đâu, ghế này là ghế của tao chứ.

Người ấy định cứ ngồi lì ở đấy, nhưng anh hẩy mạnh nó ra, chiếm lại chỗ cũ. Rồi có nhiều người khác cứ lần lượt rơi từ ống khói lò sưởi xuống. Chúng mang đến chín xương ống chân và hai đầu lâu để chơi ki với nhau. Anh cũng muốn chơi, liền bảo:

- Này các cậu cho tớ chơi với nhé.

- Được thôi nhưng phải có tiền.

Anh đáp:

- Tiền thì có đủ, nhưng những hòn lăn của các cậu không được tròn lắm.

Rồi anh để mấy cái đầu lâu lên bàn tiện mà tiện lại cho thật tròn. Anh nói:

- Như thế này nó lăn dễ hơn. Bây giờ ta tha hồ mà chơi.

Anh chơi và thua mất ít tiền. Khi đồng hồ đánh mười hai tiếng, tất cả bọn người kia biến mất. Anh nằm lăn ra đất, ngủ yên đến sáng. Sớm hôm sau, vua lại đến hỏi thăm việc đã xảy ra đêm hôm trước. Anh nói:

- Tâu bệ hạ, tôi đã đánh ki và thua mất ít tiền.

Vua hỏi:

- Nhà ngươi có thấy rùng mình không?

Anh đáp:

- Thưa không ạ. Tôi đánh vui lắm. Tôi chỉ ước gì biết thế nào là rùng mình.

Đêm thứ ba, anh lại ngồi ở ghế dài mà phàn nàn: "Ta muốn biết rùng mình mà chẳng được". Đến khuya, sáu người khổng lồ khênh một cỗ quan tài hiện ra. Anh liền nói:

- Hừ! Chắc đây là em họ mình mới chết được vài hôm nay.

Anh ta đưa ngón tay ra hiệu gọi: "Lại đây, chú em ơi!". Sau khi sáu người kia đặt quan tài xuống, anh tới giở tấm ván thiên lên xem thì thấy xác một người. Anh sờ vào mặt người chết thấy lạnh giá. Anh nói: "Để tôi sưởi cho chú một tí". Anh về chỗ đống lửa, hơ nóng tay, rồi ấp vào mặt người chết. Nhưng người chết vẫn lạnh như đồng. Anh khiêng người chết ra, đem lại gần đống lửa, cho ngồi vào lòng, xát hai cánh tay vào cho máu lại tuần hoàn. Thấy thế cũng không ăn thua, anh nghĩ rằng hai người nằm chung một giường chắc ấm hơn. Anh bèn đặt xác chết lên giường, lấy chăn phủ lên, rồi nằm kề bên cạnh. Lát sau, người chết đã ấm, bắt đầu cựa quậy. Anh liền nói:

- Thấy chưa, chú nó ơi. nếu anh không sưởi ấm cho chú thì chú đã đi đứt rồi nhé.

Người chết liền quát lên:

- Tao sắp bóp cổ mày đây.

Anh nói:

- Sao! Mày giả nghĩa tao như thế à? Tao lại bỏ mày vào săng ngay vậy.

Tức thì anh nhấc nó lên ném vào săng, đóng nắp lại. Thế là sáu người ban nãy lại đến khiêng cái săng đi ngay. Anh nói:

- Nhất định ở đây ta không thể học được rùng mình.

Vừa lúc đó, một lão khổng lồ tóc bạc râu dài có vẻ hung dữ bước vào. Lão nói:

- Thằng nhãi kia, mày sắp được biết thế nào là rùng mình, vì mày sắp chết!

Anh đáp:

- Đâu lại chóng thế? Còn xem tao có muốn chết không mới được chứ.

Con quái đáp:

- Mày có bằng lòng hay không, tao cũng sắp bắt mày đây.

Anh nói:

- Khoan, khoan, mày đừng có làm bộ. Tao cũng khỏe bằng mày, có khi còn khỏe hơn kia đấy.

Con quái nói:

- Ừ để xem sao, nếu mày khỏe hơn tao, tao sẽ để cho mày yên. Nào, ta đấu sức đi.


Nó dẫn anh qua những lối tối tăm đến một lò rèn, lấy một chiếc búa, đập lên đe, đe thụt hẳn xuống đất. Anh nói:

- Tao đập còn khỏe hơn mày.

Anh đi đến một cái đe khác. Con quái đứng sát ngay bên cạnh đe để biết sức đập mạnh đến đâu. Bộ râu bạc hắn thõng xuống lòng thòng. Anh vớ lấy búa, nện mạnh xuống đe, lôi cả râu bạc của nó vào đó. Anh nói:

- Bây giờ tao tóm được mày rồi, thế là mày sắp phải chết.

Tức thì anh cầm thanh sắt đánh cho nó một chập. Nó rên rỉ van lạy anh tha cho nó, nó sẽ cho nhiều của. Anh nhấc búa lên để nó ra. Nó dẫn anh về lâu đài, đưa anh vào một cái hầm, trỏ cho anh ba tráp đầy vàng, và bảo:

- Một tráp dành cho kẻ nghèo, tráp thứ hai cho vua, tráp thứ ba cho anh.

Bây giờ, đồng hồ vừa đánh nửa đêm. Lão kia biến mất. Còn anh ở lại trong đêm tối. Anh nghĩ bụng: "Ta phải lần đường ra". Sờ soạng hồi lâu lại thấy buồng cũ anh liền nằm ngủ bên đống lửa. Sớm hôm sau, vua lại đến hỏi anh:

- Chắc ngươi đã rùng mình được rồi chứ?

Anh đáp:

- Như vậy thực là hay, nhưng tôi vẫn chưa biết thế nào là rùng mình.

Người ta lấy ở hầm lên chỗ vàng mà con quái vật biếu anh. Lễ cưới được cử hành. Tuy vui duyên mới, vị phò mã vẫn cứ nói lải nhải: "Ước gì ta biết rùng mình!". Công chúa thấy chồng nói dai, đâm ra bực mình. Thị tỳ tâu với công chúa:

- Con sẽ xin giúp một tay làm cho phò mã rùng mình.

Ả ta ra con suối chảy qua vườn thượng uyển lấy một thùng nước đầy cá bống mang về cung. Đêm ấy, phò mã đang ngủ say, công chúa khẽ kéo chăn ra, đổ thùng nước lạnh đầy cá lên người chồng. Cá quẫy khắp lên người, phò mã choàng dậy , reo lên:

- Mình ơi, tôi rùng mình quá thể. Thế là tôi đã biết thế nào là rùng mình rồi.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:17  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Thỏ và nhím





Grim





Truyện này kể ra nghe có vẻ như chuyện bịa, các cháu ạ. Nhưng quả là có thật, vì truyện do ông tôi kể lại, mà kể một cách thích thú lắm. Ông tôi thường bảo:

- Các cháu ạ, truyện này tất là có thật, nếu không có thì làm sao kể lại được!

Đầu đuôi câu chuyện thế này:

Một buổi sáng chủ nhật mùa thu, lúa mạch đen đang độ đâm bông. Mặt trời đã lên cao. Ngọn gió ấm áp thổi lướt trên các thân rạ. Chim sơn ca hót trên không. Ong vo vo ngoài đồng lúa. Thiên hạ ăn mặc quần áo đẹp đi lễ nhà thờ, mọi người đều vui vẻ, kể cả chú Nhím nhà ta.
Chú Nhím đứng trước cửa nhà, hai tay buông thõng, ngó ngang ngó dọc trong gió sớm, khẽ hát lên một bài, nghêu ngao như họ hàng nhà Nhím thường hát vào buổi sáng chủ nhật. Đang nghêu ngao hát thì chú chợt nảy ra ý là trong khi đợi vợ rửa ráy mặc quần áo cho con cái, hãy tạt ra đồng dạo chơi xem củ cải mọc ra sao. Chả là củ cải mọc ngay cạnh nhà mà, chú và cả nhà thường ăn nên coi là của riêng của nhà mình.

Nghĩ là làm liền. Nhím đóng cửa lại rồi ra đồng. Chưa đi khỏi nhà bao xa, vừa định vòng qua bụi tường vi ngay trước đồng để băng sang ruộng củ cải, thì Nhím gặp ngay thỏ cũng đi việc ấy, nghĩa là cũng muốn xem cải bắp của mình ra sao. Nhím thấy thỏ thân mật chào. Nhưng thỏ vốn ỷ mình là bậc thượng lưu, tính kiêu kỳ, không đáp lễ Nhím, mà còn lên mặt khinh khỉnh nói:

- Thế nào! Trời còn sớm quá chạy ra đồng làm gì thế, chú mày?

Nhím đáp:

- Tôi đi dạo chơi một tí!

Thỏ cười bảo:

- Dạo chơi gì cái đồ này! Ta cho là ngươi nên dùng chân vào việc khác còn hơn!

Câu ấy làm cho Nhím bực lắm, vì gì thì chú cũng chịu được, nhưng đừng động đến đôi chân chú, tuy rằng trời đất sinh ra chú vốn bị khoèo chân.

Nhím bảo thỏ:

- Dễ ngươi tưởng là mày hơn tao về đôi chân đấy hẳn!

Thỏ đáp:

- Hẳn đi chứ l?!

Nhím nói:

- Thì hãy thử xem cái đã nào. Tao cuộc là chạy thi thế nào tao cũng được mày.

Thỏ nói:

- Tức cười chưa! Đôi chân thì khoèo mà...! Nhưng thôi tao cũng chiều mày, nếu mày tha thiết thế. Cuộc gì nào?

- Một đồng vàng và một chai rượu mạnh đấy.

- Được, đập tay nào. Bắt đầu nhé!

- Ấy không, làm gì mà hấp tấp thế! Trong bụng tao đã có tí gì đâu? Để tao về nhà ăn mấy miếng lót dạ cái đã. Nửa giờ nữa, tao sẽ lại đây.

Nói rồi Nhím đi. Thỏ hớn hở thích lắm. Nhím đi đường nghĩ bụng:

- Thỏ ta cậy có hai chân dài, nhưng mình sẽ có cách được nó. Nó là con người thượng lưu nhưng chẳng qua là đồ ngu ngốc, thế nào cũng bị mình cho một vố. Nhím về nhà bảo vợ:

- Nhà nó ơi, mặc quần áo vào nhanh lên ra đồng với tôi.

Vợ hỏi:

- Có chuyện gì thế?

- Tôi đánh cược với thỏ lấy một đồng tiền vàng và một chai rượu mạnh. Tôi định chạy thi với nó, nhà cũng phải dự cuộc mới được.

Vợ Nhím kêu lên:

- Ối trời ôi! Nhà mất trí, điên rồi hay sao? Sao nhà lại dám thi chạy với thỏ?

Nhím bảo:

- Mình im cái mồm đi, đấy là chuyện của tôi. Đừng có giây đến chuyện đàn ông. Thôi mặc quần áo rồi đi.

Cô Nhím không biết làm sao, đành theo chồng đi. Đi đường, Nhím bảo vợ:

- Này, nhà nghe tôi cẩn thận nhé! Chúng tôi sẽ chạy thi dọc theo cánh đồng dài đấy nhé. Thỏ chạy trong một luống, tôi chạy trong một luống, mà chạy từ trên xuống. Nhà chỉ việc đứng ở đây, chỗ cuối luống. Thỏ chạy từ phía kia tới thì nhà kêu lên gọi: tao đã ở đây rồi!

Đến cánh đồng, Nhím chỉ chỗ cho vợ đứng rồi trèo lên. Tới đầu cánh đồng đã thấy Thỏ đợi đấy rồi. Thỏ bảo:

- Chạy được chưa nào?

Nhím đáp:

- Được. Nào chạy!

Hai con đứng mỗi con vào một luống. Thỏ đếm: "Một, hai, ba!" rồi chạy xuống như bay. Nhím chỉ chạy vài bước rồi rúc vào luống cày ngồi im. Thỏ chạy xuống tới đầu cánh đồng thì vợ Nhím kêu lên:

- Tao ở đây rồi!

Thỏ giật mình, ngạc nhiên lắm. Nó đinh ninh là chính Nhím gọi nó vì vợ Nhím giống chồng như hệt, điều đó ai cũng biết. Thỏ nghĩ bụng:

- Có cái gì không ổn đây.

Nó kêu:

- Chạy lần nữa. Nào ta chạy ngược lên!

Rồi nó lại chạy như bay, tai đập cả vào đầu. Vợ Nhím vẫn đứng nguyên chỗ cũ. Thỏ chạy lên tới nơi, Nhím gọi:

- Tao ở đây rồi!

Đến lần thứ bảy mươi tư thì thỏ đành bỏ dở cuộc, nằm lăn ra giữa đồng. Nhím thắng cuộc liền lấy đồng tiền vàng và chai rượu mạnh, gọi vợ ra khỏi luống, cùng nhau vui vẻ về nhà. Nếu hai vợ chồng Nhím chưa chết thì ắt là còn sống, các cháu ạ!

Như vậy là ở cánh đồng Buctêhut, Nhím chạy thi đã được Thỏ, và từ đó, không có Thỏ nào dám nghĩ đến chuyện chạy thi với Nhím Buctêhut nữa.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:19  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Gã thợ xay nghèo khó


Grim






Ở một nhà xay bột kia có một bác thợ xay nghèo, không có vợ con gì cả. Bác có ba gã giúp việc. Ba gã ở với bác được vài năm thì một hôm, bác bảo họ:

- Ta đã có tuổi nên muốn được ngồi bên lò sưởi nghỉ ngơi. Chúng mày hãy ra đi, đứa nào kiếm được con ngựa hay nhất mang về sẽ được hưởng chiếc nhà xay và sẽ phụng dưỡng ta cho đến khi ta nhắm mắt.

Gã thứ ba vốn là một cố nông đi ở, bị bọn kia coi là ngốc nghếch, không đáng được hưởng chiếc nhà xay. Mà chính gã ta cũng chẳng màng tới. Cả ba cùng ra đi. Gần tới làng, hai gã đầu bảo chú ngốc tên là Hanxơ:

- Thôi, mày ở lại đây thôi, suốt đời mày chẳng kiếm nổi con ngựa thổ tả nào đâu.

Nhưng chú Hanxơ cứ đòi đi cùng. Đến đêm, bọn họ tới một cái hang và ngủ lại đó. Hai gã tinh khôn đợi đến lúc Hanxơ ngủ thì dậy lên đường, kệ chú nằm đó, lấy làm đắc sách. - Được, nhưng rồi bọn bay cũng chẳng ăn thua gì đâu!

Lúc mặt trời mọc, Hanxơ tỉnh giấc, thấy mình nằm trong hang sâu. Chú nhìn quanh rồi kêu la:
"Trời ơi là trời! Mình ở đâu đây?". Chú đứng dậy, loay hoay cố trèo khỏi cái hang rồi mò vào rừng. Chú nghĩ bụng: "Mình bị bỏ rơi ở đây một mình, làm sao mà mò cho ra được ngựa!".
Chú vừa đi vừa nghĩ như vậy bỗng gặp một con miu lông đốm nhiều màu. Miu thân mật gọi chú:

- Chú Hanxơ ơi, chú đi đâu đấy?

- Hừ! Bộ mày giúp gì được tao!

Miu đáp:

- Tôi biết tỏng chú muốn gì rồi. Chú muốn có một con ngựa đẹp chứ gì. Cứ theo tôi, hầu hạ tôi trung thành trong bảy năm thì tôi sẽ cho chú một con ngựa đẹp tuyệt trần.

Hanxơ nghĩ bụng:

- Đúng là mèo thần. Nhưng để xem nó nói có thật không. Mèo đưa chú tới tòa lâu đài bị phù chú của nó. Ở đây có tuyền mèo con hầu hạ nó. Lũ mèo lên xuống thang gác rất nhanh nhẹn,
lúc nào cũng vui vẻ. Buổi tối, lúc ngồi vào bàn ăn, có ba con chơi nhạc: một con chơi đàn tiếng trầm, một con kéo vĩ cầm, con thứ ba phồng mồm thổi kèn. Ăn xong, dọn bàn ghế rồi miu nói:

- Chú Hanxơ ơi! Lại đây nhảy với tôi.

Chú đáp:

- Chịu thôi, tôi không nhảy với mèo đâu. Tôi chưa bao giờ nhảy như vậy.

Miu bảo lũ mèo con:

- Thôi đưa chú đi ngủ vậy.

Lập tức, một con cầm đèn đưa chú vào phòng ngủ, một con cởi giầy, một con tháo tất cho chú, rồi một con thổi tắt đèn. Sáng hôm sau, lũ mèo lại đến giúp chú dậy. Con thì đi tất, con thì đi giầy, con thì rửa cho chú, con thì lấy đuôi chùi mặt cho chú. Chú Hanxơ nói:

- Thật là thú vị.

Nhưng dù sao chú vẫn phải hầu hạ con miu và ngày nào cũng phải chẻ củi. Chú được phát rìu bằng bạc, cưa bằng vàng, chùa bằng đồng. Chú ở nhà chẻ củi, được ăn uống ngon lành, nhưng không thấy ai khác ngoài con miu lông đốm nhiều màu và lũ mèo con hầu hạ. Một hôm, miu bảo chú:

- Chú hãy đi cắt cỏ ở đồng nhà ta rồi phơi khô cỏ đi.

Nói rồi, miu đưa cho chú một chiếc hái bằng bạc và một hòn đá mài bằng vàng, lại dặn chú trả lại mọi thứ cho tử tế. Hanxơ vâng lời đi làm ngay. Làm xong việc, chú mang hái, đá mài, cỏ về nhà hỏi miu xem đã được lĩnh công chưa. Miu đáp:

- Chưa được đâu. Chú còn phải làm một việc nữa đã. Đây có gỗ xây dựng bằng bạc, chiếc rìu, chiếc thước vuông và các thứ cần thiết khác đều bằng bạc cả. Chú hãy đi làm cho tôi một ngôi nhà nhỏ đi.

Hanxơ làm nhà rồi bảo mọi việc đã xong mà vẫn chưa được lĩnh ngựa. Quanh đi quẩn lại, bảy năm đã qua nhanh như chưa đầy sáu tháng. Miu hỏi chú có muốn xem ngựa của mình không.
Hanxơ đồng ý.

Miu mở chiếc cửa nhà con. Cửa mở thì thấy mười hai con ngựa. Trời ôi! Con nào con nấy trông hiên ngang, bóng lộn khiến lòng chú mừng rơn. Miu cho chú ăn rồi bảo:

- Thôi chú về nhà đi. Tôi không cho chú ngựa đâu. Nhưng trong ba hôm nữa, chính tôi sẽ đến và mang ngựa cho chú.

Hanxơ liền lên đường. Miu chỉ cho chú đường về nhà xay. Miu chẳng cho chú được một chiếc áo mới nào, bắt chú vẫn mặc nguyên chiếc áo ngoài cũ rách bươm mà chú mặc khi mới tới. Qua bảy năm chiếc áo này đã trở thành quá ngắn. Chú về nhà thì đã thấy hai gã xay bột kia về rồi. Mỗi tên mang theo một con ngựa, nhưng một con thì mù, một con thì què. Chúng
hỏi chú:

- Hanxơ, ngựa mày đâu?

- Ba ngày nữa sẽ đến sau.

Chúng cười bảo:

- Hừ! Hanxơ, mày mò đâu ra cho được con ngựa ra hồn cơ chứ. Hanxơ vào buồng. Bác thợ xay không cho chú ngồi vào bàn ăn vì sợ chú ăn mặc rách rưới quá có ai vào sẽ bị ngượng mặt. Họ để riêng cho chú một ít thức ăn. Đến tối đi ngủ, hai tên kia không cho chú nằm giường, chú đành phải chui vào chuồng ngỗng nằm trên ít rơm cộm. Sáng dậy thì thấy ba ngày đã trôi qua. Có một cỗ xe sáu ngựa tới, con nào cũng choáng lộn, trông thật đẹp. Lại có một người
hầu mang đến một con thứ bảy cho chú xay bột nghèo khó. Một nàng công chúa đẹp tuyệt vời từ trên xe xuống, đi vào nhà xay, đó là con mèo nhỏ lông đốm nhiều màu mà chú Hanxơ nghèo khó đã hầu hạ trong bảy năm qua. Nàng hỏi bác thợ xay xem gã học nghề nhỏ nhất, gã cố nông đi ở, hiện ở đâu. Bác đáp:

- Chúng tôi không dám để nó trong nhà xay vì nó rách rưới quá. Nó đương nằm ở chuồng ngỗng ấy.

Công chúa truyền cho gọi chú lên ngay. Bọn họ đi tìm chú đến. Chú phải túm chiếc áo ngoài lại để che thân. Người hầu liền lấy những bộ quần áo lộng lẫy ra rồi đưa chú đi tắm rửa, mặc vào cho chú. Công việc xong xuôi thì trông chú đẹp hơn bất cứ ông hoàng nào.

Sau đó, công chúa đòi xem những con ngựa mà các gã xay bột kia mang về: một con thì mù, một con thì què. Nàng bảo người hầu mang con ngựa thứ bảy vào. Bác thợ xay trông thấy bảo là chưa từng có con ngựa nào đẹp thế bước vào nhà bác. Nàng nói đó là ngựa của gã xay bột thứ ba. Bác thợ xay nói:

- Nếu vậy thì chú ấy được hưởng cái nhà xay.

Công chúa bảo là ngựa đã có rồi, còn bác cứ giữ lấy cái nhà xay. Rồi nàng dắt chú Hanxơ trung hậu lên xe đi thẳng. Hai người đi tới ngôi nhà nhỏ mà chú đã xây dựng bằng các dụng cụ bằng bạc. Nhà đó đã biến thành một tòa lâu đài đồ sộ, đồ đạc ở trong tuyền bằng vàng, bằng bạc. Hai người lấy nhau. Chú Hanxơ trở nên giàu có, tiền của suốt đời không tiêu hết. Xem thế thì biết chớ nên nói là kẻ nào có vẻ ngu ngốc thì không làm nên trò trống gì.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:20  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Người thợ săn tài giỏi



Grim




Xưa có một gã con trai học nghề thợ khóa. Một hôm anh thưa cha, muốn ra ngoài thiên hạ để thi thố tài năng. Người cha bảo:

- Được con ạ, cha cũng bằng lòng thôi.

Ông đưa con lên đường và cho con một ít tiền. Anh con trai đi tìm việc làm. Nhưng chỉ ít lâu sau, anh thấy chán nghề và thích đi săn. Đang lang thang, anh gặp một bác thợ săn mặc quần áo màu lục, hỏi anh từ đâu đến và định đi đâu. Anh bảo anh là thợ khóa, giờ không thích nghề ấy nữa, muốn học săn bắn, không biết bác có sẵn lòng nhận anh làm học trò không. Bác thợ săn đáp:

- Ồ, có chứ! Nếu chú thích thì cứ đi với tôi.

Anh đi theo, ở với bác mấy năm liền và được bác truyền nghề cho. Ít lâu sau, anh lại xin đi để tìm dịp thử tài. Bác thợ săn trả công cho anh một khẩu súng hơi. Súng này đặc biệt là bắn gì trúng nấy.

Anh đến chỗ kia có khu rừng rậm, đi cả ngày vẫn chưa hết. Tối đến, để tránh thú dữ, anh leo ngồi trên ngọn cây cao. Khoảng nửa đêm, anh thấy ở xa có ánh lửa le lói. Anh nhìn kỹ qua đám cành lá, cố nhớ chỗ ấy. Anh lại lấy mũ ném về phía ánh lửa, đánh dấu đường. Xong anh tụt xuống nhặt mũ rồi cứ hướng ấy thẳng đường đi tới. Càng đi tới, ánh lửa càng rõ. Lúc đến gần, anh thấy một đống lửa rất to, ba gã khổng lồ đương xiên một con bò nướng. Bỗng một
gã bảo:

- Tớ phải nếm xem sắp chín chưa.

Gã xé một miếng, sắp đưa vào miệng thì bị anh thợ săn bắn một phát, thịt văng đi mất. Gã nói:

- Ôi chao, thế mà gió cũng thổi bay được miếng thịt mình cầm đấy!

Gã xé miếng khác. Gã ghé răng vừa định cắn, lại bị anh thợ săn bắn luôn phát thứ hai, thịt văng mất nốt. Gã cáu quá, tát gã ngồi bên quát:

- Cậu giằng của tớ à?

Gã kia cãi:

- Tớ có giằng đâu, chắc tay thiện xạ nào bắn văng đi đấy.

Gã khổng lồ xé miếng thịt thứ ba, nhưng gã cầm chưa chắc tay đã lại bị bắn văng luôn nốt.
Mấy gã bảo nhau:

- Người bắn rơi miếng ăn của ta nhất định phải là tay thiện xạ. Thật là cần được một người như thế!

Cả ba gã gọi ầm ĩ:

- Này nhà thiện xạ ra đi nào! Ra đây sưởi ấm ăn no, bọn tớ không làm gì cậu đâu! Nhưng nếu cậu không chịu ra, để bọn tớ phải đi tìm thì lúc ấy xong đời cậu.

Anh bèn bước ra, nói anh là tay thợ săn lành nghề, bắn gì trúng nấy. Chúng bảo nếu anh muốn đi với chúng, chúng sẽ cho đi. Chúng kể cho anh biết, ở trước cửa rừng có một nàng công chúa xinh đẹp, chúng đang muốn cướp nàng ấy. Anh nói:

- Được, việc ấy dễ thôi!

Chúng lại bảo:

- Nhưng còn điều này: ở đấy có con chó nhỏ, cứ thấy người đến gần là nó sủa. Mà hễ nó sủa là kinh động cả triều đình. Cậu có bắn chết con chó ấy được không?

Anh bảo:

- Được chứ, có khó gì cái trò mọn ấy.

Sau đó anh xuống thuyền qua sông. Lúc thuyền vào gần bờ, con chó chạy ra định sủa. Anh bắn nó chết ngay. Bọn khổng lồ thấy thế mừng lắm, chắc mẩm phen này sẽ cướp được công chúa. Nhưng anh muốn vào xem tình hình ở trong động tĩnh thế nào đao. Anh bảo chúng cứ đứng đợi, chờ anh gọi.

Anh vào trong lâu đài, thấy thật yên tĩnh. Anh mở cửa phòng đầu tiên, thấy trên tường treo thanh kiếm bạc, có đính ngôi sao vàng và khắc tên vua. Trên bàn cạnh đấy, có lá thư niêm phong gắn xi. Anh xé thư đọc. Thư viết: "Ai lấy được kiếm thì chém ai cũng chết". Anh lấy kiếm đeo rồi lại đi. Sang đến căn phòng công chúa ngủ, thấy nàng đẹp quá, anh nín thở ngắm mãi, bụng nghĩ: "Người con gái ngây thơ thế, sao ta nỡ để vào tay mấy người khổng lồ hung
bạo và nham hiểm?". Anh nhìn quanh, thấy một đôi hài dưới gầm giường. Hài bên phải đính một ngôi sao có tên vua. Hài bên trái cũng đính một ngôi sao có tên công chúa. Cổ nàng quấn chiếc khăn lụa lớn thêu kim tuyến, vạt bên phải thêu tên vua với một ngôi sao, vạt bên trái thêu tên nàng với một ngôi sao, chữ vàng rực rỡ. Anh lấy kéo cắt vạt khăn bên phải bỏ túi. Anh bỏ túi cả chiếc hài bên phải thêu tên vua. Trong lúc ấy, người con gái vẫn ngủ say, người
như vùi trong áo. Tiện tay anh cắt một mảnh áo đút nốt vào túi kia. Anh làm rất nhẹ nhàng, không động đến người nàng. Xong anh ra đi, để nàng ngủ yên.

Lúc anh đến cổng, bọn khổng lồ đợi ở ngoài tưởng anh đem công chúa ra. Anh gọi chúng vào bảo: người thiếu nữ đó ở tay anh rồi. Anh không mở được cổng, nhưng cổng có lỗ hổng, chúng phải chui mà vào. Đợi gã thứ nhất lại, anh túm tóc kéo đầu nó, chặt một nhát, đoạn kéo cả người nó vào trong nốt. Xong anh gọi đứa thứ hai, chặt đầu nó rồi đến đứa thứ ba và rất mừng là cứu được công chúa khỏi tay kẻ thù. Anh xẻo lưỡi mấy đứa, bỏ túi. Khi ấy anh nghĩ bụng: "Hay ta về cho cha biết những việc ta làm đã, rồi ta lại đi quanh thiên hạ, nhất định sẽ gặp vận".

Vua ở trong lâu đài thức dậy thấy xác ba đứa khổng lồ, vội chạy sang phòng công chúa hỏi ai đã giết lũ giặc. Công chúa thưa:

- Tâu vua cha, con ngủ say nên không biết.

Công chúa tỉnh dậy, định mang hài thì chiếc bên phải đã mất. Nàng nhìn khăn thấy mất vạt bên phải, nhìn áo cũng thấy mất một mảnh. Vua cha hội cả triều thần, binh tướng, hỏi ai đã giết lũ khổng lồ, cứu công chua. Có tên đại úy chột mắt, xấu trai đứng ra nhận liền. Vua bèn phán gả công chúa cho gã để thưởng công. Công chúa thưa:

- Tâu vua cha, thà con bỏ nhà ra đi, chứ con không thể lấy tên ấy được!

Vua truyền nếu nàng không vâng lời thì bắt nàng cởi trả hoàng y, mặc quần áo nông thôn rồi đuổi đi. Nàng phải tới một hàng nồi kia để ngồi bán nồi đất. Công chúa trả hoàng y, đến nhà hàng nồi hỏi mượn trước một số nồi, hẹn chiều bán xong sẽ trả tiền. Vua lại bắt nàng phải dọn hàng ngay ở góc đường. Xong vua thuê mấy chiếc xe, sai đánh chạy qua giữa đám nồi đất cho vỡ hết. Công chúa vừa dọn hàng thì đoàn xe kéo đến, cán vỡ tất. Nàng khóc nói:

- Trời ơi, giờ biết lấy gì đền nhà hàng!

Vua muốn dùng cách ấy để buộc nàng lấy viên đại úy. Nhưng nàng lại đến hàng nồi, hỏi mượn thêm chuyến hàng nữa. Nhà hàng không chịu, bắt nàng phải nộp lại đủ số tiền lần trước đã. Nàng về kêu khóc với cha, nói nàng muốn đi xa. Vua phán:

- Ta sẽ cho dựng một cái lán nhỏ trong rừng, ngươi vào đó mà ở. Ngươi sẽ phải nấu ăn cho bất kỳ ai mà không được lấy tiền.

Lán dựng xong, ngoài cửa treo tấm biển đề: "Hôm nay không lấy tiền, mai sẽ lấy". Công chúa đến đấy ở. Tin truyền đi chỗ nọ có người con gái nấu ăn không lấy tiền, biển treo ngoài cửa đề rõ ràng như thế.

Tin đồn đến tai anh thợ săn. Anh nghĩ bụng: "Đấy là dịp tốt cho mình, mình nghèo xơ xác, một xu không có". Anh khoác súng, đeo túi đi. Trong túi còn nguyên những thứ đã lấy ở lâu đài làm vật chứng. Vào rừng, anh tìm thấy cái làn có biển đề: "Hôm nay không lấy tiền, mai sẽ lấy". Anh vẫn đeo thanh kiếm dùng để giết ba gã khổng lồ, bước vào xin ăn. Anh mừng rỡ thấy người con gái đẹp quá, cứ như tranh vẽ. Nàng hỏi anh từ đâu lại và định đi đâu. Anh đáp:

- Tôi ngao du thiên hạ.

Nàng thấy tên cha mình trên đốc kiếm, hỏi anh đã lấy nó ở đâu. Anh hỏi nàng có phải là công chúa không. Nàng đáp:

- Đúng.

Anh bảo:

- Chính tôi ngày ấy đã chặt đầu ba đứa khổng lồ bằng thanh kiếm này.

Anh lấy xâu lưỡi trong túi ra làm chứng, lại cho nàng xem cả chiếc hài, vạt khăn và mảnh áo. Nhận ra người cứu mình, công chúa vui mừng khôn xiết. Sau đấy, hai người về gặp vua. Công chúa dẫn vua về phòng riêng của mình ngày trước, đoạn tâu để vua rõ: Chính anh thợ săn mới là người đã cứu mình và giết lũ khổng lồ. Vua thấy vật chứng rành rành, không ngờ gì nữa mới phán: "Giờ mọi sự đã rõ ràng là điều rất tốt. Ta thuận cho chàng thợ săn làm phò mã". Công chúa nghe phán mừng vô hạn.

Sau đấy người ta cho anh thợ săn ăn mặc giả làm khách lạ. Vua truyền bày tiệc cưới. Khách vào bàn tiệc, tên đại úy ngồi bên trái công chúa, anh thợ săn ngồi bên phải công chúa. Tên đại úy cứ tưởng anh là khách mời đến. Ăn uống xong, vua phán người có điều muốn hỏi để tên đại úy thử đoán xem: "Có kẻ dám nhận đã giết ba đứa khổng lồ, người ta mới hỏi lưỡi mấy đứa ấy đâu, nó ra tìm thấy đầu lâu không có lưỡi, thì thế nào?"

Tên đại úy tâu:

- Tất mấy đứa kia không có lưỡi.

Vua phán:

- Nói sai rồi. Phàm động vật, giống nào lại không có lưỡi.

Vua hỏi tiếp:

- Với kẻ nói sai, nên xử lý thế nào?

Tên đại úy đáp:

- Tâu, phải đuổi nó ra ngoài cõi.

Vua phán: "Thế là nó tự kết án nó rồi". Người sai đuổi tên ấy ra ngoài cõi.

Công chúa lấy anh thợ săn. Phò mã cho đón cha mẹ đến để phụng dưỡng. Cả nhà đoàn tụ êm ấm. Sau khi vua mất, phò mã lên nối ngôi.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:22  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Lên thiên đàng



Grim



Ngày xưa, một bác bần nông có tuổi và ngoan đạo chết. Bác đến trước cổng Trời. Một lãnh chúa rất giàu, chết cùng một lúc với bác, cùng đến cổng Trời lúc bác đến. Thánh Pêtrux mang chìa khóa đến mở cửa đón ông ta vào. Hình như thánh không thấy bác bần nông nên đóng sập cửa lại. Đứng bên ngoài, bác bần nông nghe rất rõ tiếng đàn hát đón chào lãnh chúa lên trời.

Cuối cùng yên tĩnh trở lại. Thánh Pêtrux đến, mở cửa Trời cho bác nông dân vào. Bác tưởng là cũng sẽ có đàn hát đón chào. Nhưng bốn bề lặng ngắt. Dĩ nhiên vẫn có cuộc tiếp đón thân mật; các thiên thần ra đón bác. Nhưng không có ca hát. Bác bần nông hỏi Thánh Pêtrux tại sao người ta không ca hát đón bác như đón vị lãnh chúa. Bác thấy hình như ở trên trời cũng bất công như ở trần gian.

Thánh Pêtrux bèn trả lời:

- Không phải đâu, chúng tôi quý bác như bất cứ một người nào khác. Bác sẽ được hưởng thú vui trên trời này như vị lãnh chúa giàu có kia. Nhưng bác phải hiểu là những người bần nông như bác thì ngày nào cũng có người lên trời. Nhưng lãnh chúa giàu có thì hàng trăm năm họa có một người.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:23  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Cây củ cải


Grim




Ngày xưa có hai anh em đều đi lính. Anh thì giàu, em thì nghèo. Người em không muốn sống nghèo khổ mãi, bỏ lính về làm nông dân. Anh cuốc một vạt đất ở đầu cánh đồng và gieo hạt củ cải. Mầm mọc, củ lớn dần, lớn dần, lớn không ngừng đến mức có thể coi là củ cải chúa, chưa bao giờ từng có củ cải nào to như vậy và cũng sẽ chẳng bao giờ sẽ thấy củ cải to như thế. Cuối cùng, nó thành một củ cải khổng lồ, một mình nó có thể chiếm hết một xe chở và phải gióng hai con bò để kéo xe. Bác nông dân không biết dùng củ cải ấy làm gì và tự hỏi không biết đây là phúc hay là họa. Rút cuộc, bác tự bảo: "Nếu mang bán thì người ta sẽ trả bao nhiêu? Nếu ăn củ cải thì ăn những củ nhỏ cũng đến thế thôi. Tốt nhất là ta mang tiến vua để tỏ lòng thành kính".

Bác khiêng củ cải lên một cái xe, gióng hai con bò, dắt xe đến cung nhà vua để dâng vua. "Cái vật kỳ lại này là cái gì vậy? - Vua phán - Ta đã từng trông thấy nhiều vật lạ, nhưng chưa thấy một vật khổng lồ như thế này, không biết mọc từ cái hạt giống gì ra? Hoặc giả ngươi là phù thủy và đã đích thân làm ra củ này?". "Tâu bệ hạ, không phải thế đâu ạ - Bác nông dân trả lời - Thần là một anh lính nghèo nuôi thân không xong nên phải thôi lính về làm đất. Thần có một người anh giàu có, bệ hạ biết nhiều về anh ấy. Nhưng thần thì không có gì, nên bị mọi người ruồng bỏ".

Nhà vua thương hại bác nông dân và phán:

- Nhà ngươi sẽ không nghèo đói nữa, ta sẽ ban cho ngươi của cải để nhà ngươi cũng giàu như anh nhà ngươi.

Vua ban cho bác nông dân rất nhiều vàng, ruộng nương, đồng cỏ và gia súc, đến mức bác trở nên rất giàu, của cải người anh không sánh được.

Khi người anh biết là em trở nên giàu có nhờ có một cây củ cải, thì anh ta ghen tức và nghĩ nát óc ra tìm một cách để cũng gặp may như em. Anh láu hơn em, mang biếu nhà vua vàng và ngựa, nghĩ rằng vua sẽ ban cho anh nhiều của cải hơn em. Nếu em ta chỉ biếu nhà vua có một củ cải mà được vua ban cho chừng nấy của thì vua sẽ ban cho ta biết mấy để đáp lại những tặng phẩm quý giá! Vua nhận đồ dâng của anh và phán là không có gì quí hơn và hiếm hơn là cây củ cải. Vua bèn cho anh cây củ cải to tướng. Người anh đành chất cây củ cải của người em lên một cái xe rồi kéo về nhà.

Về đến nhà, người anh không biết trút cơn tức giận lên đầu ai cho tới khi nẩy ra ý nghĩ độc ác là giết em. Anh thuê những kẻ giết người và cho chúng nấp ở một nơi. Anh đến gặp em và bảo: "Chú ạ, tôi biết nơi cất giấu một kho vàng, chúng ta cùng đi lấy rồi chia nhau". Người em đi với anh, không nghi ngờ gì cả. Khi hai người đi tới nơi đã định, những kẻ giết người nhảy xổ vào người em, trói em lại và chuẩn bị treo cổ lên một cái cây. Khi chúng đang làm việc đó thì ở xa có tiếng hát và tiếng vó ngựa vọng lại. Chúng sợ hãi nhét người bị bắt - đầu lộn ngược - vào một cái bao, treo lên một cái cây rồi chạy trốn. Ở trên cây, người em giãy giụa cho tới khi cái bao bị thủng một lỗ, đầu lọt ra. Người đi tới chẳng qua là một cậu sinh viên đi lang thang, một thanh niên đang vừa ruổi ngựa trong rừng và hát vang lên. Người em ở trên cây thấy có người vừa qua bên dưới bèn kêu to:

- Cậu đến thật đúng lúc!

Cậu sinh viên ngó quanh, không biết tiếng nói từ đâu ra. Cuối cùng cậu nói:

- Ai gọi tôi thế?

Từ ngọn cây, người em trả lời:

- Hãy ngẩng lên mà nhìn. Tôi ở trên cao, trong một cái túi dạy khôn. Trong một thời gian ngắn, tôi đã học được không biết bao nhiêu điều hay; những điều học ở trường chẳng thấm vào đâu. Tôi học sắp xong rồi, tôi sẽ xuống và tôi sẽ giỏi hơn mọi người trên thế gian này. Tôi thông thiên văn, biết hướng đi của gió, cát ở ngoài biển, cách chữa mọi bệnh tật, công dụng của cây cỏ, các loại chim và các loại đá. Nếu anh chui vào đây, anh sẽ thấy ở trong túi dạy khôn này hạnh phúc biết chừng nào.

Cậu sinh viên nghe thấy thế ngạc nhiên vô cùng và nói:

- Quả là trời phù hộ cho tôi được gặp bác. Bác làm ơn cho tôi vào trong túi một lúc có được không?

Người em trả lời như có vẻ chần chừ: "Tôi cũng muốn để anh chui vào một tí nếu anh đưa tôi một ít tiền và ăn nói tử tế, nhưng anh hãy đợi một giờ nhé. Còn có điều tôi muốn học thêm đã".

Cậu sinh viên chờ một chốc, sốt ruột năn nỉ xin người em cho chui vào vì anh nóng lòng muốn học khôn. Người em giả bộ như cũng chiều ý cậu và nói:

- Muốn để tôi bước ra khỏi cái nhà dạy khôn này, anh hãy hạ túi dọc theo cái dây thừng. Sau đó sẽ đến lượt anh vào".

Cậu sinh viên hạ người em xuống, mở túi cho anh chui ra. Sau đó, cậu kêu lên:

- Giờ thì hãy kéo tôi lên cao nhanh lên!

Rồi anh chui vào trong túi. "Hượm đã!" - người em nói, - "như thế chưa được". Anh đẩy cậu sinh viên đầu lộn ngược vào túi, buộc miệng túi lại rồi kéo lên cây. Anh đẩy cho cái túi đu đưa trên không rồi hỏi:

- Cậu thấy thế nào hở cậu? Cậu thấy đấy, cậu cảm thấy khôn ngoan đang đến đấy, cậu đã học được nhiều. Hãy cứ nằm im, cho đến khi nào khôn ngoan hơn."

Sau đó, người em nhảy lên con ngựa của anh sinh viên và đi. Được một giờ, anh cho người đến tháo cho cậu sinh viên xuống.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:25  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Hai anh em




Grim




Xưa có hai anh em, anh thì giàu mà em thì nghèo. Người anh giàu có làm nghề thợ vàng, tính vốn ác nghiệt. Người em tết chổi bán kiếm tiền ăn, tính tình hiền hậu ngay thật. Người em có hai con, đẻ sinh đôi giống nhau như hai giọt nước. Hai đứa bé thỉnh thoảng vẫn lui tới nhà bác để hòng kiếm thức ăn thừa.

Một bữa kia, người em vào rừng đốn củi bỗng thấy có con chim toàn vàng, xưa nay anh chưa từng thấy. Anh nhặt một viên sỏi ném, may trúng chim, nhưng chỉ rụng có một chiếc lông vàng còn chim bay mất. Anh lại nhặt cái lông mang về cho người anh. Gã nhìn rồi bảo: "Vàng thật đấy" rồi gã trả tiền cho em. Bữa sau, người em trèo lên một gốc bạch dương định chặt lấy mấy cành, tình cờ lại thấy con chim hôm trước bay đi. Anh tìm một lát thấy tổ chim, trong có quả trứng vàng. Anh nhặt trứng đem về cho người anh, gã lại bảo: "Vàng thật đấy" và trả tiền cho em. Sau rốt, gã thợ vàng bảo: "Ta muốn có cả con chim kia!" Người em vào rừng lần thứ ba lại thấy con chim đang đậu trên cây. Anh nhặt đá ném nó rơi xuống, đoạn xách nó về cho người anh, được gã trả cho một nắm vàng. Anh nghĩ bụng: “Giờ thì ta có thể sống đàng hoàng rồi đấy". Anh hài lòng lắm, ra về.

Gã thợ vàng vốn là tay tinh quái, ranh mãnh nên gã thừa biết con chim kia đáng giá bao nhiêu rồi. Gã gọi vợ, bảo: "Hãy mang quay con chim vàng này cho tôi, nhớ chú ý đừng để mất đi tí gì nhé, tôi muốn ăn một mình tất cả". Con chim này đâu có phải giống chim thường. Nó vốn thuộc một loài rất lạ. Ai ăn được tim gan nó trong vòng mười năm, cứ mỗi sáng lật gối lên sẽ có một đồng vàng. Người vợ mổ chim xong, cắm vào một cái xiên bỏ lò quay. Lát sau, chị ta có việc cần đi ra ngoài. Tình cờ giữa khi ấy, hai đứa nhỏ con người em chạy vào bếp đứng xem quay chim. Chúng nó xoay cái xiên đi, lại mấy vòng. Thấy hai miếng gì nho nhỏ rơi từ trong bụng chim xuống lòng chảo, một đứa bảo: "Ta ăn tí đi, em đói lắm, chẳng ai biết đâu mà sợ". Mỗi đứa nhặt ăn một miếng. Đang ăn bỗng người đàn bà trở vào thấy rõ chúng nhai mới hỏi: "Bay ăn gì thế?". Hai đứa đáp: "Có vài miếng từ bụng chim rơi xuống bác ạ". "Tim gan nó đấy mà!". Người đàn bà hãi quá. Để chồng khỏi thấy thiếu mà nổi nóng, chị vội thịt ngay một con gà, moi tim gan ra bù vào chỗ thiếu ở con chim vàng. Chim chín rồi, chị mang lên cho chồng. Gã ngốn tất một mình, không còn sót lại lấy một miếng. Sớm hôm sau, lúc luồn tay xuống dưới gối, gã cứ đinh ninh sẽ được một đồng vàng nhưng gã chẳng thấy gì hết. Còn hai đứa nhỏ, chúng không ngờ vận may đã đến với chúng. Sớm hôm sau, lúc chúng thức giấc, bỗng có vật gì rơi xuống đất, tiếng kêu lanh lảnh. Chúng nhặt lên, té ra là hai đồng vàng.
Chúng vội đem vào cho bố. Anh ta ngạc nhiên lắm, cứ tự hỏi: "Đầu đuôi thế nào đây nhỉ?".

Nhưng rồi sáng hôm sau lại được hai đồng vàng nữa và cứ thế. Anh ta bèn tìm người anh và kể cho anh nghe câu chuyện lạ. Gã thợ vàng hiểu ngay ra thế nào rồi, chắc hai đứa bé đã xơi mất cỗ tim gan trong con chim vàng của gã. Vốn tính tham lam cay nghiệt, để báo thù, gã mới dọa em: "Các cháu nó rỡn với quỷ rồi đấy! Chú chớ có lấy vàng và cũng chẳng nên cho chúng ở nhà nữa. Quỷ đã ám chúng và có thể sẽ còn hại cả chú nữa". Người em nghe nói sợ lắm, nên mặc dù trong lòng đau như cắt, anh đành dắt hai con vào rừng, và ngậm ngùi bỏ con lại đó.

Hai đứa trẻ quanh quẩn mãi trong rừng mà chẳng tìm được lối về, chúng bị lạc càng sâu hơn. Sau gặp một người đi săn hỏi chúng: "Các cháu là con cái nhà ai thế?". Chúng đáp: "Chúng cháu là con người tết chổi nghèo". Chúng kể cho người đi săn biết chuyện cha chúng không muốn giữ chúng ở nhà chỉ vì sáng nào ở dưới gối của chúng cũng có một đồng tiền vàng. Người đi săn bảo: "Được, có gì khó khăn đâu, chỉ miễn là các cháu cứ ở cho ngay thật và chớ làm biếng". Người đi săn tốt bụng này vốn không có con. Thấy hai đứa trẻ dễ thương, anh đưa luôn chúng về nhà mình và bảo: "Ta nuôi các cháu làm con". Anh truyền cho chúng nghề thợ săn và cất hộ chúng những đồng vàng mà sáng chúng vẫn được, để sau này dùng tới.

Khi hai đứa trẻ đã lớn rồi, một hôm bố nuôi mới dắt cả hai vào rừng và bảo: "Bữa nay, các con phải bắn thử để ta còn làm lễ cho các con chính thức vào nghề". Ba người vào chỗ ẩn nhưng họ đợi mãi chẳng thấy con thú nào mò tới. Bác thợ săn mới ngẩng đầu lên nhìn bắt gặp đàn vịt trời trắng như tuyết đang xếp theo hình tam giác bay qua. Bác bảo con lớn: "Thử hạ mỗi góc một con coi nào?". Người con lớn bắn và đạt được đúng như đúng lời bố dặn. Lát sau lại có đàn nữa bay tới, lần này chúng xếp thành hình số hai. Bác lại bảo con thứ hai thử hạ mỗi góc một con. Anh chàng này bắn cũng đạt. Bố nuôi bảo: "Ta tuyên bố là kể từ nay, các con chính thức vào nghề". Tiếp đó, hai anh em đưa nhau vào rừng bàn bạc và nhất trí với nhau điều gì đó. Tối đến, lúc ngồi vào bàn ăn, hai người thưa với bố nuôi: "Chúng con sẽ chẳng chịu ăn đâu nếu như bố không thuận cho chúng con một điều". Bác hỏi: "Các con có điều gì vậy?". Hai người đáp: "Giờ chúng con đã học thành nghề rồi, muốn đi thử tài với thiên hạ một phen, xin hãy cho chúng con đi.". Bác thợ săn vui lòng lắm: "Các con ăn nói đúng như những người thợ săn dũng cảm, điều mong muốn của các con cũng chính là điều ước nguyện của bố, các con cứ đi đi, tất sẽ thành công". Ba người lại ăn uống rất vui vẻ.

Tới ngày đã định, bố nuôi tặng mỗi người một khẩu súng với một con chó săn. Số vàng dành dụm bấy lâu nay cũng trả cho các con mang theo tùy ý muốn. Bác đi tiễn các con một đoạn đường. Lúc chia tay, bác còn cho thêm hai đứa một con dao còn mới sáng loáng và bảo: "Khi nào các con từ biệt nhau, nhớ cắm con dao này vào một gốc cây. Lúc trở về, cứ xem dao khắc biết tin nhau. Rút dao ra, nếu thấy han rỉ tức là người vắng mặt đã chết. Trái lại, dao còn sáng
tức là người còn sống".

Hai anh em đi miết tới một khu rừng to, đi trọn một ngày mà chưa hết rừng. Họ phải ngủ đêm ở đó và lấy lương khô ra ăn. Lại đi trọn một ngày hôm sau nữa cũng chưa hết rừng. Lương ăn đã cạn rồi anh bảo em: "Phải bắn con gì ăn cho đỡ đói". Nói xong anh nạp đạn và tìm quanh. Thấy con thỏ chạy tới, anh giương súng ngắm nhưng thỏ kêu: "Hãy tha mạng cho tôi, tôi xin nộp hai con thỏ con". Nó nhảy ngay vào bụi, sau đó tha ra hai chú thỏ con. Mấy con vật nhỏ này trông rất đáng yêu, hai người động lòng thương không nỡ giết. Họ giữ chúng lại và mang theo, hai con thỏ cũng bám rất sát dấu chân hai người. Một lát sau đó, lại gặp một con cáo. Hai người định bắn thì cáo kêu lên: "Hãy tha mạng cho tôi, tôi xin nộp hai con cáo nhỏ". Cáo
tha ra hai chú cáo nhỏ. Hai người cũng không nỡ giết, cho đi cùng với hai con thỏ. Lát sau, một con sói ở chỗ rừng rậm ra. Hai người định bắn thì sói kêu: "Hãy tha mạng cho tôi, tôi xin nộp hai con sói nhỏ". Họ tha hai con sói nhỏ nhập đàn với mấy con kia cùng đi. Lại gặp một con gấu nhưng gấu cũng tham sống kêu lên: "Hãy tha mạng cho tôi, tôi xin nộp hai con gấu nhỏ". Hai con gấu nhỏ được nhập cùng đàn với mấy con trên, thành tám con tất cả. Sau đó, họ gặp sư tử. Sư tử rũ bờm tiến lại. Nhưng hai người nào có sợ. Họ giương súng ngắm. Sư tử vội kêu lên: "Hãy tha mạng cho tôi, tôi xin nộp hai con sư tử con". Nó tha hai con nó ra. Thế là
hai người đã có một đôi sư tử, một đôi gấu, một đôi sói, một đôi cáo, một đôi thỏ theo hầu.

Trong bụng vẫn đói, họ mới bảo hai con cáo: "Này các chú cáo, các chú vốn ranh mãnh, đa mưu lại nhẹ nhàng, hãy kiếm cái gì ăn đi". Cáo đáp: "Cách đây không xa có một thôn nhỏ, bọn tôi vẫn thường tới đó ăn trộm gà, để chúng tôi xin dẫn đường". Hai người tìm đường vào thôn, mua ít thức ăn, lại không quên cho cả mấy con vật ăn rồi tiếp tục ra đi. Hai con cáo vốn đã biết quá rõ trong vùng ấy chỗ nào nuôi gà, nên chúng chỉ đường cho hai người thợ săn rất rành.

Đi quanh quẩn đã khá lâu rồi mà vẫn chẳng tìm ra được chốn nào có việc làm mà lại ở cùng với nhau, nên hai anh em bàn: "Chỉ còn cách là ta chia tay nhau thôi.". Hai người chia đám súc vật ra, mỗi người lấy một con sư tử, một con gấu, một con sói, một con cáo và một con thỏ. Rồi họ từ biệt nhau, hứa sẽ giữ tình anh em trọn đời và cắm con dao mà bố nuôi đã cho họ lên một gốc cây. Một người theo hướng đông mà đi, còn người kia lần theo hướng tây. Người em dẫn đàn súc vật đi tới một thành thị kia, thấy khắp nơi trong thành treo toàn cờ đen. Chàng rẽ vào một quán trọ hỏi chủ quán có chỗ cho súc vật của chàng trọ không. Chủ quán đưa chúng vào một cái chuồng, trên vách chuồng có lỗ thủng. Thế là thỏ ta chui được ra ngoài đi kiếm một cái bắp cải trắng. Cáo cũng kiếm được một con gà mái, ăn xong nó lại xơi luôn nốt con gà trống. Nhưng sói, gấu và sư tử vì thân hình to lớn quá, không vào chuồng được. Chủ quán bèn dẫn chúng ra một nơi, có con bò sữa đang nằm trên thảm cỏ, chúng thịt ngay con bò sữa.

Chàng thợ săn lo cho đàn súc vật xong xuôi rồi mới hỏi thăm chủ quán xem tại sao trong thành chỉ thấy toàn cờ tang. Chủ quán cho biết: "Sáng mai, công chúa con một của đức vua
qua đời". Chàng hỏi lại: "Nàng bị ốm nặng hay sao?". Chủ quán đáp : "Không đâu, nàng vẫn tươi tỉnh khỏe mạnh nhưng nàng sẽ phải chết". Chàng thợ săn vẫn hỏi: "Sao vậy?". “- Trước cửa thành có một ngọn núi cao, trên núi có một con rồng. Năm nào rồng cũng đòi phải hiến cho nó một người con gái đẹp, bằng không nó sẽ tàn phá cả giang sơn này. Giờ thì con gái đẹp
trong thành đã hết rồi, chỉ còn lại mình công chúa, bắt buộc phải hiến nàng cho nó thôi. Mai là tới kỳ hạn đó". Chàng thợ săn lại hỏi: "Thế sao không giết con rồng đi?". Chủ quán đáp: "Trời ơi, biết bao hiệp sĩ đã bỏ mình với nó rồi. Vua hứa là nếu ai thắng nổi nó thì sẽ được lấy con gái người, sau này lại sẽ được hưởng ngôi báu nữa".

Chàng thợ săn không nói gì nữa. Sáng hôm sau chàng lẳng lặng dẫn súc vật lên núi tìm rồng. Lên đến trên núi chàng thấy có một ngôi nhà thờ. Trên bàn thờ có ba cốc rượu đầy, bên cạnh có mấy dòng chữ viết: "Ai uống cạn mấy cốc rượu này thì sẽ trở thành người khỏe nhất trần gian và sẽ múa nổi thanh kiếm chôn ở dưới bậc cửa". Chàng không uống rượu mà ra nhấc thanh kiếm ngay nhưng không sao nhấc nó lên. Chàng đành phải quay lại uống cạn rượu,
lúc này mới đủ sức nhấc nổi thanh kiếm và còn có thể múa nó rất dễ dàng nữa.

Tới giờ nộp công chúa cho con rồng, cả đức vua, quan nguyên soái và quần thần đều đi theo để tiễn nàng. Từ xa nàng đã nom thấy chàng thợ săn đứng trên một ngọn núi. Nàng ngỡ đó là con rồng đang đợi nàng nên không chịu đi nữa. Nhưng nàng lại nghĩ số phận của cả thành, nàng lại đành phải đi, bước chân nặng trĩu. Vua và quần thần quay về, lòng buồn vô hạn, chỉ duy quan nguyên soái còn phải đứng lại đó để chứng kiến từ xa các việc sắp xảy ra. Công chúa lên ngọn núi thấy chẳng phải là rồng mà lại là chàng thợ săn trai trẻ. Chàng an ủi nàng, bảo cho nàng biết là chàng sẽ cứu nàng, đưa nàng vào trong nhà thờ và khóa cửa lại. Một lát sau, có tiếng gió cuốn dữ dội rồi một con rồng bảy đầu xuất hiện. Thấy chàng thợ săn nó ngạc nhiên lắm, hỏi:

- Mi lên núi có việc gì?

Chàng trả lời:

- Ta muốn đọ sức với mi.

Rồng bảo:

- Bao nhiêu hiệp sĩ đã bỏ mình ở nơi đây rồi, ta sẽ cho mi theo gót chúng.

Tức thì cả bảy cái đầu của nó phun lửa phì phì. Lửa bắt vào cỏ khô. Chàng thợ săn sẽ chết trong đám khói nếu mấy con vật của chàng không kịp chạy tới dập tắt. Rồng bèn xông vào chàng. Chàng vung kiếm, thanh kiếm rít trên không, chém rụng ba đầu rồng. Con rồng nổi điên, nó bay vút lên cao khạc lửa đồng thời định đâm bổ xuống. Chàng thợ săn lại chém luôn một nhát, đứt thêm ba đầu nữa. Con vật đã quá kiệt sức rơi xuống nhưng nó vẫn muốn xông vào lượt nữa. Chàng lấy hết sức còn lại chém đứt đuôi nó. Chàng không đánh được nữa bèn gọi mấy con vật của chàng. Chúng xô lại xé xác con rồng ra thành từng mảnh.

Cuộc chiến đấu đã xong, chàng mở cửa nhà thờ thấy công chúa đang nằm lăn dưới đất. Trong lúc đánh nhau, nàng đã ngất đi vì quá sợ. Chàng vực nàng ra ngoài, đợi một lúc nàng đã tỉnh và hé mắt nhìn chàng mới chỉ cho nàng mấy khúc xác rồng để cho nàng biết là nàng đã thoát. Công chúa mừng lắm nói: "Rồi chàng sẽ là chồng thiếp vì cha thiếp có hứa sẽ gả con gái cho ai giết được rồng". Nàng tháo chuỗi vòng san hô đang đeo ở cổ chia cho mấy con vật để thưởng công cho chúng, riêng sư tử được chia cái khóa vàng. Còn chiếc khăn tay thêu tên nàng, nàng đưa tặng chàng thợ săn. Chàng bèn ra cắt bảy cái lưỡi của bảy đầu rồng, bọc vào khăn giữ cẩn thận. Sau đó vì bị lửa hun và đánh nhau đã kiệt sức, chàng bảo công chúa: "Hai ta đều đã quá mệt mỏi, ta hãy ngủ một lúc". Công chúa
ưng thuận. Hai người nằm ngay dưới đất. Chàng bảo sư tử: "Mày hãy ngồi canh đừng cho ai xâm phạm vào chúng ra trong giấc ngủ". Hai người ngủ. Sư tử nằm cạnh hai người để canh, nhưng vì nó cũng mệt rồi nên nó gọi gấu bảo: "Mày lại nằm cạnh tao, tao cần ngủ một lúc, có chuyện gì thì mày đánh thức tao". Gấu lại nằm bên sư tử nhưng vì gấu cũng mệt nó gọi sói bảo: "Mày lại nằm cạnh tao, tao cần ngủ một lúc, có chuyện gì thì mày đánh thức tao". Sói lại nằm bên gấu nhưng vì sói cũng mệt nên nó gọi cáo bảo: "Mày lại
nằm cạnh tao, tao cần ngủ một lúc, có chuyện gì thì mày đánh thức tao". Cáo lại nằm bên sói nhưng vì cáo cũng mệt nên gọi thỏ bảo: "Mày lại nằm cạnh tao, tao cần ngủ một lúc, có chuyện gì thì mày đánh thức tao". Thỏ lại nằm bên cáo nhưng vì chính chú thỏ đáng
thương cũng mệt rồi mà chẳng nhờ được ai canh giùm nên nó ngủ thiếp đi mất. Thế là công chúa, anh thợ săn, sư tử, gấu, sói, cáo, thỏ tất cả ngủ say.

Tên nguyên soái vẫn đứng nhìn ở đằng xa, lúc này không thấy rồng cắp công chúa bay lên, trên núi đâu đấy vẫn yên tĩnh, hắn bạo dạn đi lên. Lúc đến nơi, hắn thấy mấy khúc xác rồng lăn lóc trên mặt đất và cách đó một quãng, công chúa với người thợ săn và mấy
con vật đang say sưa ngủ. Hắn vốn là tay gian ác xảo quyệt nên rút kiếm chặt ngay đầu người thợ săn, rồi hắn bế công chúa xuống núi. Công chúa thức giấc, thấy thế sợ lắm, nhưng tên nguyên soái đã bảo: "Nàng giờ ở trong tay ta rồi, nàng phải nói chính ta đã chém chết con rồng". Công chúa đáp: "Ta không thể làm được đâu vì đó là công của
người thợ săn với mấy con vật". Tên nguyên soái rút kiếm ra dọa nếu nàng không chịu nghe hắn sẽ giết nàng. Công chúa đành phải nhận lời. Ngay sau đó, hắn đưa nàng đến gặp vua cha. Vua cha vốn đinh ninh là con gái yêu của mình đã bị quái vật xé xác nên thấy con vẫn sống trở về, vua vui mừng khôn xiết.

Tên nguyên soái tâu: "Thần đã có công chém được con rồng để cứu công chúa và cứu nước, nay xin bệ hạ cho thần được lấy nàng như lời bệ hạ đã hứa hẹn. Vua hỏi công chúa: "Có đúng như lời của hắn nói không?". Công chúa đáp: "Thưa đúng như thế nhưng con xin đợi một năm lẻ một ngày nữa rồi hãy làm lễ cưới". Nàng mong mỏi trong khoảng thời gian đó may ra có thể được tin tức về người yêu.

Trên quả núi rồng, khi ấy mấy con vật vẫn còn nằm ngủ say sưa cạnh thân chủ chúng. Bỗng có một con ong bay đến đậu ngay trên mũi thỏ. Thỏ giơ chân gạt nó rồi lại ngủ. Ong bay đến lần thứ hai, thỏ cũng gạt nó đi rồi lại ngủ. Ong bay lại lần thứ ba, đốt luôn vào mũi thỏ. Thỏ giật mình tỉnh dậy. Nó đánh thức cáo, cáo đánh thức sói, sói đánh thức gấu, gấu đánh thức sư tử. Sư tử tỉnh dậy, thấy công chúa đã biến mất, chỉ còn chủ nằm chết đó, nó rống lên rất dữ dội và hét: "Kẻ nào đã làm việc này? Gấu sao mày chẳng đánh thức tao?". Gấu hỏi sói: "Sao mày chẳng đánh thức tao?". Sói hỏi cáo: "Sao mày chẳng đánh thức tao?". Cáo lại hỏi thỏ: : "Sao mày chẳng đánh thức tao?". Thỏ không biết trả lời thế nào, thành thử tội lỗi đổ cả lên đầu nó. Mấy con vật kia định xông vào đánh thỏ, thỏ vội khẩn khoản: "Các anh đừng giết tôi, để tôi sẽ làm cho chủ của chúng ta sống lại. Tôi biết một quả trên núi, trên có thứ rễ cây, chỉ cần ngậm thứ rễ cây ấy là bệnh tật thương tích gì cũng khỏi. Nhưng quả núi lại ở cách đây có tới hai trăm tiếng đồng hồ đường bộ kia". Sư tử bảo: "Hẹn cho mày nội trong hai mươi bốn tiếng phải tới đó lấy bằng được thứ rễ nọ về đây".

Thỏ nhảy tót đi ngay. Hăm bốn giờ sau nó đã về, mang theo thứ rễ nọ. Sư tử vội tha đầu chủ, chắp vào mình như trước, còn thỏ nhét rễ cây vào miệng chủ. Tức thì đầu lại liền ngay với mình, tim bắt đầu đập và người chết sống lại. Chàng thợ săn tỉnh dậy thấy mất công chúa, kinh hoảng lắm. Chàng nghĩ bụng: "Chắc nàng đã thừa lúc ta ngủ bỏ trốn rồi".
Lúc sư tử chắp đầu cho chủ, nó vội quá nên chắp trái chiều, nhưng chủ nó đang buồn không để ý. Mãi đến trưa lúc sắp ăn chàng mới biết là đầu mình ngoảnh lại phía sau lưng. Chàng không hiểu sao cả, bèn hỏi mấy con vật đã có chuyện gì xảy ra trong khi chàng
ngủ. Sư tử kể rằng khi ấy chúng ngủ hết vì mệt quá, lúc nó tỉnh dậy thấy chủ đã chết, đầu bị chặt lìa khỏi xác, thỏ đã đi lấy rễ cây trường sinh, còn nó trong lúc quá vội đã chắp đầu trái chiều, giờ nó muốn sửa lại thiếu sót ấy. Kể xong, nó rứt luôn đầu chàng thợ săn ra, xoay trở lại và thỏ lại vội lấy rễ cây chữa cho liền lại.

Chàng thợ săn buồn lắm. Chàng đi đây đi đó, dạy mấy con vật nhảy múa làm vui cho thiên hạ xem. Đúng một năm sau, chàng trở lại chỗ thành thị chỗ chàng đã cứu công chúa ngày trước. Lần này thấy phố xá treo toàn cờ đỏ. Chàng hỏi chủ quán: "Thế là thế nào? Năm trước phố xá treo toàn cờ đen, năm nay sao lại chỉ thấy treo toàn cờ đỏ?". Chủ quán đáp: "Năm trước, vua chúng tôi phải tiến công chúa cho rồng, may nhờ quan nguyên soái đánh nhau với rồng đã chém được nó. Mai đây là ngày cưới nàng. Chính vì vậy mà năm trước phố xá treo cờ đen để chịu tang, còn hôm nay treo cờ đỏ để ăn mừng".

Hôm nay là ngày lễ cưới, đến bữa trưa, chàng thợ săn bảo chủ quán: "Ông chủ có tin là bữa nay ta sẽ lấy được bánh mì ở tận bàn tiệc của nhà vua về đây ăn không?". Chủ quán thưa: "Tôi chẳng dám tin đâu; vâng, tôi xin cuộc với ngài trăm đồng vàng đây". Chàng thợ săn nhận đánh cuộc. Chàng cũng đưa ra một cái túi đựng một trăm đồng vàng. Đoạn chàng gọi thỏ và bảo: "Chú thỏ tài nhảy nhót, chú hãy vào lấy bánh của nhà vua ăn ra đây cho ta".

Thỏ vốn bé nhất đám, chẳng thể sai khiến con vật nào khác nên nó đành phải tự thân đi lấy. Nó nghĩ bụng: "Một mình mình chạy giữa phố thế này tất sẽ bị chó săn đuổi mất thôi". Quả như nó nghĩ, có mấy con chó rượt theo, muốn lột da nó. Nó chạy nhanh như biến và lẩn ngay được vào một cái chòi gác mà lính canh chẳng biết gì hết. Đàn chó xông lên định lôi nó ra nhưng tên lính canh lại ngỡ đàn chó muốn rỡn với mình, hắn nổi nóng phang luôn mấy báng súng. Lũ chó sủa om sòm rồi chạy mất. Thỏ thấy đã hết nguy, nhảy luôn vào lâu đài. Nó đến thẳng chỗ công chúa, lẻn dưới gầm ghế nàng ngồi khẽ cào chân nàng. Công chúa tưởng là con chó của nàng nên mắng: "Mày có đi chỗ khác không?". Thỏ cào lần thứ hai, công chúa lại mắng: "Mày có đi chỗ khác không?". Nhưng thỏ không hề bối rối, nó cào lần thứ ba. Công chúa mới nhòm xuống và nhờ cái dây buộc ở cổ thỏ, nàng nhận được nó. Nàng bế nó lên, mang vào phòng hỏi: "Thỏ yêu quí ơi, thỏ muốn
gì thế". Thỏ đáp: "Chủ tôi là người giết rồng hiện đã tới đây. Người sai tôi vào xin một tấm bánh mì vua vẫn ăn". Công chúa nghe nói mừng lắm. Nàng cho gọi ngay người thợ làm bánh vào, sai lấy một tấm bánh, thứ mà vua vẫn thường ăn. Thỏ lại nói: "Xin cho người
thợ làm bánh đem tôi ra ngoài để lũ chó săn khỏi hại tôi". Người thợ làm bánh đem thỏ đến tận cửa nhà trọ. Thỏ ôm tấm bánh mì bằng hai chân trước, đi bằng hai chân sau đem vào chỗ ông chủ. Chàng thợ săn bảo chủ quán: "Thấy chưa, ông chủ quán ơi, trăm đồng vàng kia là của tôi rồi".

Chủ quán kinh ngạc lắm, nhưng chàng thợ săn đã nói tiếp: "Vâng ông chủ ạ, bánh đã có rồi, giờ thì tôi lại muốn ăn cả món thịt rán của nhà vua nữa kia!". Chủ quán bảo: "Để xem nào". Nhưng anh ta không dám đánh cuộc nữa. Chàng thợ săn liền gọi cáo bảo: "Chú cáo, chú hãy vào lấy món thịt rán của vua ra đây cho ta". Con cáo lông đỏ này luồn tài hơn thỏ. Nó cứ tìm ngõ ngách mà đi nên không bị con chó nào trông thấy. Nó lẻn vào dưới gầm ghế công chúa ngồi, cào lên chân nàng. Công chúa nhìn xuống, thấy sợi dây buộc ở cổ cáo, nhận ra nó, đem nó vào phòng, hỏi: "Cáo yêu quí ơi, cáo muốn gì thế?". Cáo đáp: "Chủ tôi là người giết rồng, hiện đã ở đây rồi. Người sai tôi vào xin một miếng thịt rán của vua ăn. Công chúa gọi đầu bếp, sai làm món thịt rán vua vẫn ăn đem ra cho cáo. Cáo bưng lấy đĩa thịt, đem về cho chủ.

Chàng thợ săn bảo chủ quán: "Thấy chưa, ông chủ ơi, bánh, thịt đã có rồi, bây giờ ta muốn ăn món rau của nhà vua nữa". Chàng gọi sói vào bảo: "Chú sói, chú vào lấy món rau của nhà vua ăn ra đây cho ta". Sói chẳng sợ ai cả nên nó vào thẳng trong lâu đài. Nó đến phòng công chúa, khẽ kéo áo nàng để nàng buộc phải nhìn xuống. Nàng trông thấy sợi dây buộc ở cổ nó, nhận ra nó mới đưa nó vào phòng, hỏi: "Sói thân yêu ơi, sói muốn gì?". Sói đáp: "Chủ tôi là người giết rồng, hiện đã ở đây rồi. Người sai tôi vào xin món rau của vua ăn". Công chúa gọi đầu bếp, sai làm món thịt rau vua vẫn ăn đem ra tận cửa cho sói. Sói bưng liễn rau đem về cho chủ.

Chàng thợ săn bảo chủ quán: "Thấy chưa, ông chủ ơi, bánh, thịt, rau đã có rồi, bây giờ ta muốn ăn món đồ ngọt của nhà vua nữa". Chàng gọi gấu và bảo: "Chú gấu, chú vốn thích liếm của ngọt, chú hãy lấy món đồ ngọt của vua ăn ra đây cho ta". Gấu lạch bạch chạy vào lâu đài. Dọc đường, ai thấy nó cũng phải lảng tránh. Tới chỗ lính canh, tên lính giơ súng định ngăn không cho nó đi. Nó nhẩy ngay lên, và cho tên lính mấy cái tát vào má phải má trái. Cả cái chòi gác đổ sập. Nó lại thẳng đường vào chỗ công chúa, đứng sau lưng nàng khẽ gầm gừ. Công chúa quay lại nhận ra gấu, bèn gọi nó vào phòng hỏi: "Gấu thân yêu ơi, gấu muốn gì?". Gấu đáp: "Chủ tôi là người giết rồng, hiện đã ở đây rồi. Người sai tôi vào xin món đồ ngọt của nhà vua vẫn dùng". Công chúa vội gọi người thợ làm bánh ngọt, sai làm thứ bánh ngọt vua thường ăn, mang ra cho gấu. Gấu liếm đường rơi bên dưới lên cả phía trên rồi nó mới đứng dậy, bưng âu bánh đem về cho chủ.

Chàng thợ săn bảo chủ quán: "Thấy chưa, ông chủ ơi, bánh, thịt, rau, đồ ngọt đã có rồi, bây giờ ta lại muốn uống thứ rượu mà vua thường dùng". Chàng gọi sư tử vào và bảo: "Chú sư tử, chú vốn thích rượu. Chú hãy vào lấy thứ rượu nho của vua về cho ta". Sư tử đi ra đường, ai thấy nó cũng chạy; tới chỗ chòi gác. Lính canh định cản đường nó, nó rống lên một tiếng, mọi thứ đã bị bắn tung đi hết. Sư tử đến trước phòng vua, quất đuôi lên cửa. Công chúa ra, thoạt thấy nó rất kinh khủng, nhưng rồi nàng nhận ra nó nhờ có cái chìa khóa
vàng buộc ở cổ nó. Nàng gọi nó vào phòng, hỏi: "Sư tử thân yêu ơi, sư tử muốn gì?".
Sư tử đáp: "Chủ tôi là người giết rồng, hiện đã ở đây rồi. Tôi vào xin thứ rượu nho mà vua vẫn uống". Công chúa vội cho gọi người hầu rượu, sai đem thứ rượu nho vua vẫn uống ra cho sư tử. Sư tử nói: "Để tôi đi xem có đúng thứ ấy không!". Nó liền đi theo người hầu rượu. Xuống dưới hầm, người này định lấy thứ rượu thường của bọn người hầu vẫn uống. Sư tử bảo: "Khoan, đợi ta nếm xem đã!". Nó tự rót lấy nửa bình, tu một hơi cạn ráo. Nó bảo: "Không phải thứ này". Người hầu rượu liếc trộm nó rồi ra chỗ thùng rượu khác, định lấy thứ rượu vẫn dành cho quan nguyên soái. Sư tử lại bảo: "Khoan để ta nếm xem đã!". Nó tự rót nửa bình nữa, tu cạn: "Có khá hơn nhưng vẫn chưa phải". Người hầu rượu phát cáu mới nói: "Cái đồ súc vật, ngu độn còn biết gì về rượu!". Tức thì gã bị sư tử vả ngay cho một cái vào sau gáy ngã phục xuống bất tỉnh nhân sự. Lúc tỉnh lại rồi, gã không
dám nói gì nữa, cứ lẳng lặng đưa sư tử đến bên một cái hầm đặc biệt nhỏ nhắn. Trong đó là rượu của vua. Xưa nay ngoài vua ra không ai được uống. Sư tử lại rót lấy nửa bình nếm trước. Xong nó bảo: "Có thể đúng đấy". Nó sai gã kia rót ra sáu chai đầy, rồi cùng đi lên. Lúc ra tới bên ngoài, nó thấy chuyếnh choáng hơi say. Gã kia đem rượu ra đến tận cửa cho nó. Nó ngoạm giỏ rượu vào mồm tha về cho chủ.

Chàng thợ săn bảo chủ quán: "Thấy chưa ông chủ, bánh, thịt, rau, đồ ngọt, rượu nho của vua đã có đủ cả, giờ ta mới cùng mấy con vật thưởng thức đây".

Chàng ngồi vào ăn uống, lại chia cả cho thỏ, cáo, sói, gấu, sư tử cùng ăn và uống. Chàng thấy công chúa vẫn yêu mình nên vui lắm. Ăn xong, chàng bảo: "Này ông chủ, tôi đã ăn uống như vua rồi, giờ tôi muốn vào triều để xin lấy công chúa đây!". Chủ quán hỏi: "Xin
thế nào được! Công chúa đã có nơi có chốn rồi, mà hôm nay là ngày cưới kia mà".

Chàng bèn rút túi ra lấy cái khăn tay mà công chúa đã cho chàng ở trên núi rồng khi trước, trong khăn tay vẫn gói bảy cái lưỡi của con quái. Chàng nói: "Ta đã có vật này trong tay, nó sẽ giúp ta làm việc ấy". Chủ quán xem cái khăn rồi bảo: "Tin gì thì tin chứ
điều đó tôi không thể tin được. Tôi sẵn lòng xin cuộc cả nhà cửa, sân vườn đây!". Chàng thợ săn lại lấy ra một cái túi trong đó có nghìn đồng vàng, đặt lên bàn rồi nói: "Ta cũng xin cuộc số vàng này".

Ở bàn ăn trong cung, vua hỏi công chúa: "Mấy con thú cứ đi ra đi vào trong cung, chúng đến chỗ con có việc gì thế?". Nàng đáp: "Con chẳng dám tâu trình đâu, xin cha cứ cho người đi gọi chủ nhân của nó tới đây, cha sẽ rõ".

Vua sai kẻ hầu đến quán trọ mời người lạ mặt. Kẻ hầu đến, đúng như chàng thợ săn đã đánh cuộc với chủ quán. Chàng bảo: "Ông thấy chưa, ông chủ, vua sai kẻ hầu đi mời tôi đó, nhưng tôi chẳng đi như thế này đâu".

Chàng lại bảo người hầu: "Ngươi về tâu vua xin hãy gởi hoàng bào cho ta, xin hãy cấp cho ta một cỗ xe sáu ngựa với một số quân hầu".

Vua được tin báo, hỏi công chúa: "Làm sao bây giờ?". Công chúa đáp: "Xin cứ triệu và cấp mọi thứ như chàng đòi, sẽ không uổng đâu".

Vua bèn sai đem áo hoàng bào với một cỗ xe sáu ngựa cấp cho chàng, lại cấp cho một số người để hầu hạ chàng. Chàng thợ săn thấy đoàn người kéo đến, bảo chủ quán : "Thấy chưa, ông chủ, thế là tôi đã được triệu, đúng như tôi đòi đấy nhé".

Chàng mặc áo hoàng bào, cầm theo chiếc khăn gói lưỡi rồng rồi lên xe vào chầu. Vua thấy chàng đã đến, hỏi con gái: "Ta tiếp hắn thế nào đây?". Nàng đáp: "Xin Người cứ ra đón, sẽ không uổng đâu".

Vua bèn đón chàng, đưa chàng vào, mấy con vật cũng đi theo sau. Vua chỉ cho chàng ngồi cạnh mình với công chúa. Còn tên nguyên soái ngồi ghế chú rể ở phía bên kia, nhưng gã không nhận ra được chàng. Vừa khi đó, bảy chiếc đầu rồng được đem bày. Vua phán: "Bữa
nay, ta gả con gái cho quan nguyên soái là để thưởng cái công đã chém được bảy chiếc đầu này". Chàng thợ săn liền đứng lên, ra mở từng đầu một hỏi: "Thế bảy cái lưỡi rồng đâu?". Tên nguyên soái sợ tái mặt. Không biết trả lời ra sao, sau cùng gã nói liều: "Rồng không có lưỡi". Chàng thợ săn bảo: "Chỉ những đứa gian trá mới không có lưỡi, còn lưỡi rồng chính là vật chứng của người thắng trận". Chàng cởi chiếc khăn ra, bảy cái lưỡi vẫn nguyên đó. Chàng lắp từng cái một vào từng đầu rồng, quả nhiên đều khớp hết. Sau đó chàng lại đưa cho công chúa xem chiếc khăn thêu tên nàng và hỏi nàng đã cho ai chiếc khăn này. Công chúa đáp: "Cho người đã chém chết con rồng". Chàng lại gọi từng con vật lại, tháo lấy mấy sợi dây buộc ở cổ chúng rồi tháo cả cái khóa vàng ở cổ sư tử, đưa cho công chúa và hỏi của ai. Nàng đáp: "Mấy sợi dây buộc cổ và cái khóa vàng này đều là của
thiếp, thiếp chia cho mấy con vật để thưởng chúng đã góp công giết rồng". Khi ấy chàng thợ săn mới nói: "Thừa lúc thần đánh rồng xong, mệt mỏi ngủ mất, tên nguyên soái kia đã đi đến chặt đầu thần. Sau đó, gã đưa công chúa đi và mạo nhận là chính gã đã chém rồng.
Mấy cái lưỡi, chiếc khăn tay với mấy sợi dây buộc cổ đây chứng minh là gã nói dối".

Chàng lại kể tiếp chuyện mấy con vật đã đi kiếm rễ cây thần về cứu chàng như thế nào, một năm qua chàng đã đi phiêu dạt những đâu, rồi cuối cùng lại quay trở về đúng nơi đây, nhờ chủ quán trọ nói cho nghe mà biết được mưu gian của tên nguyên soái. Vua bèn hỏi công chúa: "Có đúng người này đã chém rồng không?". Nàng đáp: "Tâu, đúng thế, giờ con mới dám nói ra cái tội của tên nguyên soái. Con không nói thì chuyện cũng lộ rồi. Nó đã
bức con phải hứa giữ kín. Mà con xin để một năm lẻ một ngày sau hãy làm lễ cưới, chính cũng vì chuyện ấy".

Vua cho triệu mười hai mưu sĩ đến để luận tội tên nguyên soái. Các mưu sĩ khép hắn vào án tử hình. Xử tội hắn xong, vua cho chàng thợ săn lấy công chúa, lại phong chàng làm phó vương trong cả nước. Đám cưới được tổ chức rất trọng thể. Phó vương cho người
đi triệu bố đẻ và bố nuôi mình, tặng hai người rất nhiều châu báu. Chàng cũng không quên người chủ quán trọ. Chàng cho triệu người ấy vào, bảo: "Thấy không, ông chủ, tôi đã lấy công chúa rồi, nhà cửa sân vườn nhà ông giờ là của tôi". Chủ quán thưa: "Thưa như vậy là
đúng lý". Nhưng vị phó vương đã bảo: "Thôi để ta khoan hồng cho: nhà cửa sân vườn ông cứ giữ, còn nghìn vàng nọ ta tặng thêm cho ông đó". Còn người bác nghe chuyện, sợ chàng hỏi tội trốn đi mất.

Phó vương với công chúa từ đó sống rất vui vẻ và hạnh phúc. Chàng đi săn luôn, vì đó là sở thích của chàng và mấy con vật trung thành thường đi theo chủ. Gần đó có một khu rừng. Người ra đồn trong rừng có quỷ và ít ai vào rừng mà lại ra được. Vị phó vương trẻ tuổi rất muốn đi vào đó săn. Chàng cứ nài mãi, cuối cùng ông vua già phải bằng lòng cho
chàng đi. Chàng lên ngựa, đem theo một đoàn tùy tùng rất đông. Vào đến cửa rừng thấy con hươu cái lông trắng như tuyết. Chàng bảo những người theo hầu: "Các người hãy chờ ta ở đây, ta muốn đi săn con thú đẹp đẽ kia".

Chàng thúc ngựa đuổi theo hươu vào rừng, chỉ có mấy con vật theo chàng thôi. Đoàn người đứng lại đợi cho đến chiều, không thấy chàng ra. Họ đành quay ngựa về báo với công chúa: "Phó vương đuổi theo một con hươu trắng vào khu rừng thiêng rồi không thấy trở ra". Công chúa lo cho chồng vô cùng. Trong lúc ấy, chàng vẫn mãi đuổi con thú mà không sao theo kịp nó được. Cứ đúng lúc chàng thấy vừa tầm bắn thì nó lại nhảy xa hơn và cứ thế sau rồi nó biến đâu mất. Lúc này chàng mới thấy mình đã vào quá sâu trong rừng. Chàng đưa tù và lên rúc một hồi, không thấy trả lời vì không ai nghe được tiếng tù và của chàng. Tối đến, thấy rõ mình không kịp về nữa, chàng xuống ngựa, bên một gốc cây đốt lửa định bụng sẽ ngủ đêm tại đó. Chàng vừa ngồi xuống bên đống lửa, mấy con vật cũng nằm quanh đó, chợt nghe văng vẳng như có tiếng người. Chàng nhìn quanh nhưng chẳng thấy gì. Lúc sau lại thấy có tiếng rên ở trên cao. Chàng nhìn lên thấy một mụ già ngồi vắt vẻo trên cây, đang rên rỉ: "Hu, hu, hu, rét quá!". Chàng bảo mụ: "Rét thì xuống đây mà sưởi". Nhưng mụ ta đáp: "Chịu thôi, lũ súc vật của người sẽ cắn ta mất".
Chàng lại bảo: "Chúng không làm gì mẹ đâu, mẹ ơi, cứ xuống đây". Mụ già ấy chính là một mụ phù thủy. Mụ bảo: "Để ta ném cây gậy xuống. Người cứ lấy cây gậy đập lên lưng chúng là chúng sẽ không làm gì ta nữa đâu". Nói rồi mụ ném xuống một cái gậy nhỏ.
Chàng lấy gậy đập lên lưng mấy con vật. Tức thì chúng nằm yên và bị hóa đá ngay tức khắc. Không phải lo về mấy con vật nữa, mụ phù thủy mới nhảy xuống, lấy cây gậy đập nốt vào người chàng, biến chàng thành đá. Xong mụ rú lên cười, lôi chàng và mấy con vật
xuống một cái hố, trong lòng hố có nhiều tảng đá loại ấy rồi.

Công chúa ở nhà đợi mãi không thấy chồng về, càng lo sợ. Vừa khi ấy, người anh lúc chia tay đi về hướng đông, nay cũng tới xứ này. Chàng đi tìm việc làm chẳng được, cứ lang thang đây đó, dạy mấy con vật nhảy múa làm trò vui. Một ngày kia, chàng muốn về thăm gốc cây, chỗ hai người đã cắm lưỡi dao lúc chia tay để xem em mình ra sao. Trở về đó, chàng thấy bên mặt dao của em đã bị rỉ mất một nửa, chỉ còn một nửa vẫn sáng. Chàng lo quá, thầm nghĩ: "Chắc em ta gặp nạn lớn rồi, nhưng may ra còn cứu được, vì nửa dao kia vẫn sáng. Chàng vội dẫn súc vật đi về hướng tây. Lúc tới cổng thành, lính canh hỏi có cần phải vào tin cho hoàng hậu biết không: từ mấy hôm nay, hoàng hậu rất lo vì sự vắng mặt của phó vương, người chỉ sợ phó vương đã gặp họa trong rừng mất rồi. Lính canh tưởng chàng chính là vị phó vương trẻ tuổi, vì nom chàng giống em như hệt, lại cũng có một đàn súc vật đi theo. Khi ấy chàng biết tên lính đã nhầm mình với em mình, bèn tự nghĩ thầm:
"Tốt nhất là ta hãy nhận đi, sẽ càng dễ cứu em hơn". Chàng liền để tên lính đưa mình vào trong cung và được đón tiếp rất vui vẻ. Công chúa cũng tưởng đó là chồng mình nên hỏi: "Tại sao chàng vắng nhà lâu thế?". Chàng đáp: "Ta bị lạc vào rừng, mãi mới tìm được lối
ra". Tối đến chàng nằm trên giường em, để một thanh kiếm hai lưỡi chắn giữa mình và công chúa. Công chúa chẳng hiểu thế nào, nhưng không dám hỏi.

Chàng ở lại vài ngày, thăm dò mọi tin tức về khu rừng thiêng nọ, rồi chàng bảo: "Ta phải đến đó săn lần nữa". Vua và công chúa muốn can ngăn mà không được. Chàng dẫn một đoàn tùy tùng rất đông lên đường. Vào đến rừng, chàng cũng gặp đúng mọi sự như em
mình trước đó. Chàng thấy một con hươu trắng, bèn bảo những người đi theo: "Hãy đợi ta ở đây, ta muốn săn con thú kia". Chàng thúc ngựa vào rừng, mấy con vật chạy theo sau chàng. Nhưng chàng không tài nào đuổi kịp được con hươu. Vào đã sâu quá, tối đến chàng phải ngủ lại trong đó. Vừa khi đốt được đống lửa, chàng nghe trên đầu có tiếng rên: "Hu, hu, hu, rét quá!". Chàng nhìn lên, thấy mụ phù thủy ngồi trên cây. Chàng bảo: "Nếu rét, thì xuống đây mà sưởi mẹ ạ". Mụ đáp: "Chịu thôi, lũ súc vật của người sẽ cắn ta mất". Nhưng chàng lại bảo: "Chúng không làm gì mẹ đâu". Mụ bèn gọi xuống: "Ta sẽ ném cho người một cái gậy, người lấy gậy ấy mà đập chúng thì chúng sẽ không làm gì ta nữa".

Chàng thợ săn nghe thấy thế không tin mụ già nữa. Chàng bảo: "Ta sẽ không đánh mấy con vật của ta đâu, mụ hãy xuống đi, bằng không ta sẽ lôi mụ xuống". Mụ bèn hét lên: "Mày muốn gì nào? Mày làm gì được ta?". Nhưng chàng đáp: "Mụ không xuống thì ta sẽ bắn mụ ngã xuống". Mụ bảo: "Mày cứ việc bắn, ta không sợ gì mấy viên đạn của mày". Chàng giơ súng bắn, nhưng vì đạn chì nên không thể xuyên vào người mụ. Mụ cười sằng sặc và hét: "Mày không tài nào bắn trúng được ta đâu!". Chàng thợ săn đã biết, chàng vội rứt ba cái cúc bạc trên áo nạp luôn vào nòng súng. Vì như thế, tà thuật của mụ không linh thiêng nữa, nên khi chàng bấm cò thì nó hét lên lộn nhào ngay xuống đất. Chàng dẫm một
chân lên người nó, bảo: "Con mụ phù thủy già, nếu mày không chịu thú em ta hiện ở đâu thì ta sẽ sách mày quăng luôn vào đống lửa". Mụ sợ quá, xin tha và nói: "Chàng cùng mấy con vật đã bị hóa đá ở dưới một cái hố". Chàng liền bắt mụ dẫn tới đó, đe mụ và bảo: "Con khỉ độc già kia, giờ mày phải làm cho em ta và mọi vật ở dưới này sống lại. Bằng không ta sẽ ném mày vào lửa".

Mụ vội lấy gậy khẽ động vào các tảng đá, tức thì em chàng với mấy con vật đều sống lại, cả nhiều người khác nữa, lái buôn, thợ thủ công, mục đồng. Mọi người đứng dậy, cảm ơn cứu mạng, rồi kéo nhau về. Hai anh em gặp nhau, ôm hôn, vui mừng khôn kể. Hai người túm lấy mụ phù thủy, trói mụ lại vứt vào lửa. Sau khi mụ chết thiêu rồi, khu rừng tự nó cũng biến đổi, trở nên quang đãng sáng sủa hơn, có thể thấy được cung điện chỉ các đó ba giờ đường bộ.

Hai anh em cùng về. Dọc đường, hai người kể cho nhau nghe chuyện mình. Khi người em báo tin là chàng được thay vua trị vì cả nước thì anh bảo: "Điều ấy anh đã biết. Lúc anh vào thành, người ta cứ tưởng anh là chú nên đã dành cho anh mọi thứ nghi lễ của các bậc vua chúa. Ngay công chúa cũng tưởng anh là chồng nên anh đã phải ăn cùng bàn, nằm cùng giường với nàng".

Em nghe tới đó nổi ghen, điên tiết rút kiếm chém một nhát đứt lìa đầu anh. Đến lúc thấy anh nằm chết đó, máu tuôn chảy thì anh hối hận vô cùng. Chàng kêu lên: "Anh ta đã cứu ta mà giờ ta nỡ hại người", rồi khóc lóc thảm thiết. Thỏ chạy lại xin cho đi lấy rễ cây trường sinh. Nó đi rồi về còn vừa kịp: người chết sống lại và không biết gì về vết thương trên mình cả.

Hai người lại đi tiếp. Em bảo: "Nom anh giống em như hệt. Anh cũng mặc áo hoàng bào như em, đằng sau cũng có mấy con vật kéo theo. Ta thử vào hai cổng khác nhau rồi từ hai phía cùng đi vào chỗ vua ngự xem thế nào?".

Hai người tách ra. Sau đó vua thấy cùng một lúc lính canh ở hai cổng khác nhau cùng báo là phó vương dẫn mấy con vật đi săn về. Vua phán: "Sao lại thế được, hai cổng thành cách nhau có đến một giờ đường bộ kia mà?". Trong khi ấy, hai anh em từ hai phía khác nhau đã cùng vào tới trước sân lâu đài và đang cùng bước lên. Vua hỏi công chúa: "Con bảo người nào là chồng con? Hai người giống hệt nhau, ta không phân biệt được". Công chúa sợ lắm, chẳng biết nói sao. Sau nàng chợt nhớ đến sợi dây vàng đã cho lũ súc vật để buộc cổ. Nàng tìm một lúc thấy ngay chiếc khóa vàng ở cổ một con sư tử. Nàng mừng quá, reo lên: "Người có con sư tử này đi theo mới thật là chồng con". Phó vương cười bảo: "Đúng, đúng vậy đó".

Mấy người cùng ngồi vào bàn ăn uống rất vui vẻ. Tối hôm ấy, lúc phó vương vào giường nằm, công chúa mới bảo: "Tại sao mấy đêm trước, đêm nào chàng cũng đặt thanh kiếm hai lưỡi giữa giường, thiếp cứ nghĩ là chàng có ý định chém chết thiếp".

Khi ấy phó vương mới rõ hết tấm lòng của anh mình. Chân lý luôn thuộc về những con người trung hậu, dũng cảm. Những thế lực đen tối luôn bị chặn đứng trước những con người trung hậu, dũng cảm đó.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:26  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Ba sợi tóc vàng của quỷ


Grim





Ngày xưa, ở một làng kia, có một người đàn bà nghèo sinh được một đứa con trai. Khi nó ra đời, người ta tiên tri là năm mười bốn tuổi, nó sẽ lấy được công chúa. Vào lúc đó, nhà vua vi hành qua làng, không một ai biết. Vua hỏi trong làng có sự gì lạ không, thì dân làng tâu:

- Gần đây có một đứa trẻ mà người ta tiên tri là năm mười bốn tuổi, nó sẽ lấy được công chúa.

Nhà vua vốn độc ác nghe nói như vậy tức lắm, liền đến ngay nhà bố mẹ đứa trẻ, giả vờ thân mật bảo:

- Các bác nghèo khó, hãy giao con cho tôi để tôi chăm sóc nó cho.

Hai vợ chồng nhà kia trước còn từ chối, sau thấy người lạ mặt đưa cho nhiều vàng, nghĩ bụng: "Con mình là đứa tốt số. Như thế lại hay cho nó", nên cuối cùng bằng lòng trao con.

Vua đặt đứa trẻ vào một cái hòm, cưỡi ngựa tới một chỗ nước sâu, ném hòm xuống, nghĩ thầm: "Thế là con gái ta thoát khỏi tay anh chàng rể bất đắc dĩ này".

Nhưng cái hòm không chìm, cứ nổi như một chiếc tàu nhỏ, nước không thấm vào một giọt. Hòm trôi lềnh bềnh cách kinh kỳ hai dặm, đến cửa cổng một cối xay thì bị mắc lại. May lúc đó có thằng bé xay bột trông thấy, lấy móc kéo vào. Nó tưởng trong có của, nhưng khi mở ra thì thấy một đứa bé khỏe mạnh, khôi ngô. Nó mang đứa trẻ về cho chủ. Hai vợ chồng này không có con, nên mừng lắm. Họ hết sức chăm sóc, đứa bé hay ăn chóng lớn. Một hôm, tình cờ vua vào nhà xay để tránh mưa. Vua hỏi vợ chồng người xay bột có phải gã thanh niên cao lớn là con trai họ không. Họ đáp:

- Tâu bệ hạ không phải, đó là đứa trẻ nhặt được cách đây mười bốn năm. Nó nằm trong một cái hòm trôi dạt tới cửa cổng, thằng bé xay bột nhà chúng tôi đã vớt nó lên.

Vua nghĩ thầm chắc là đứa bé tốt số mà mình đã vứt xuống nước trước kia, bèn nói:

- Này ta muốn nhờ gã này mang một lá thư đến cho hoàng hậu, có được không? Ta sẽ thưởng cho hai đồng vàng.

Bố mẹ nuôi vâng lệnh bảo gã chuẩn bị đi.

Vua viết thư cho hoàng hậu nói: "Khi gã thanh niên mang thư này đến, thì giết nó ngay và chôn nó đi. Phải thi hành mệnh lệnh này trước khi ta về".

Chàng thanh niên cầm thư lên đường, nhưng đi lạc đến một khu rừng to. Trong đêm tối, chàng thấy một ánh đèn, lại gần thì là một cái nhà nhỏ. Chàng vào nhà thấy một bà lão ngồi một mình bên bếp lửa. Bà lão thấy chàng, hoảng sợ hỏi:

- Con ở đâu đến? Con đi đâu?

- Con ở nhà xay đến. Con phải mang thư đến cho hoàng hậu, nhưng bị lạc trong rừng. Con muốn xin ngủ lại đêm nay ở đây.

- Tội nghiệp! Con lạc vào nhà kẻ cướp rồi. Chúng về thì chúng sẽ giết con.

- Thôi, muốn ra sao thì ra. Cháu chẳng sợ. Vả lại cháu mệt quá, không đi được nữa đâu.

Chàng nằm lên ghế dài ngủ. Lát sau bọn cướp về, tức giận hỏi gã thanh niên nào ngủ đó.
Bà lão nói:

- Trời ơi! Thằng bé có tội tình gì đâu! Nó lạc vào rừng, tôi thương tình cho nó vào đây. Nó phải mang thư cho hoàng hậu đấy.

Bọn cướp bóc dấu niêm phong thư thấy nói là phải giết ngay người mang thư này. Bọn cướp tuy nhẫn tâm mà cũng động lòng, tên tướng cướp xé tan lá thư đó, viết lá thư khác đại ý nói phải gả công chúa ngay cho chàng thanh niên mang thư này đến. Họ để cho chàng ngủ yên đến sáng. Sáng hôm sau, họ giao thư cho chàng và chỉ đường cho đi. Hoàng hậu nhận được thư, theo lệnh tổ chức đám cưới linh đình, gả công chúa cho chàng tốt số. Chú rể đẹp trai và tốt nết, công chúa sống với chồng hạnh phúc lắm.

Sau đó ít lâu, vua về, thấy lời tiên tri đã thành sự thật, đứa bé tốt số đã lấy con mình, bèn nói:

- Chẳng hiểu sao lại thế, trong thư ta ra lệnh khác cơ mà.

Hoàng hậu lấy thư đưa vua xem. Vua thấy thư đã bị đánh tráo, bèn hỏi con rể thư cũ đâu, sao lại đánh tráo thư khác. Chàng đáp:

- Tâu bệ hạ, con không biết. Chắc ban đêm con ngủ trong rừng, thư đã bị đánh tráo.

Vua tức giận nói:

- Như thế không ổn. Muốn lấy con ta thì phải xuống âm phủ nhổ ba sợi tóc vàng của con quỉ đem về nộp ta. Nếu người làm nổi thì vẫn được phép làm chồng con ta.

Vua định làm như thế để tống khứ chàng thanh niên đi. Nhưng chàng đáp:

- Con không sợ quỉ, con sẽ lấy được tóc vàng về.

Chàng bèn cáo từ vua ra đi. Khi chàng đến một thành phố lớn, lính canh hỏi chàng làm
nghề gì và biết những gì. Chàng đáp:

- Gì cũng biết.

Lính canh nói:

- Thế anh bảo giùm chúng tôi tại sao giếng ở chợ chúng tôi trước kia luôn chảy ra rượu vang, mà nay lại cạn hẳn đi, đến một giọt nước cũng không còn.

Chàng nói:

- Chờ khi tôi về, tôi sẽ bảo cho biết.

Chàng lại đi, đến một thành phố khác. Lính canh cũng hỏi chàng làm nghề gì và biết những gì. Chàng lại đáp:

- Gì cũng biết.

Lính canh nói:

- Thế anh bảo giùm chúng tôi biết tại sao trong thành chúng tôi có cây táo trước kia ra quả vàng mà nay đến một chiếc lá cũng không còn?

Chàng lại đáp:

- Chờ tôi về, tôi sẽ cho biết.

Chàng lại đi, đến một con sông lớn. Người lái đò hỏi chàng làm nghề gì và biết những gì.
Chàng đáp:

- Gì cũng biết.

Người lái đò nói:

- Thế anh bảo giùm tôi biết tại sao tôi cứ phải chở đò qua lại trên khúc sông này không có ai thay.

Chàng đáp:

- Để khi trở về tôi sẽ bảo cho biết.

Qua sông đến bến, chàng thấy cửa âm phủ tối om, ám khói. Con quỉ đi vắng. Ở nhà chỉ có một bà già ngồi trong một chiếc ghế bành rộng. Bà không có vẻ ác. Bà hỏi:

- Cháu muốn gì?

- Cháu muốn lấy ba sợi tóc của con quỉ, nếu không thì mất vợ.

- Kể thì quá đấy. Nếu con quỉ về mà thấy cháu ở đây thì chắc chắn là cháu mất đầu. Nhưng thôi, ta thương hại cháu, để xem có cách nào giúp cháu không.

Bà làm phép cho chàng biến ra kiến và bảo:

- Cháu hãy bò vào trong áo ta thì mới toàn tính mệnh được.

- Vâng, quí hóa quá, nhưng con còn muốn biết ba điều: "Một là tại sao giếng nước trước kia chảy ra rượu vang, nay bỗng cạn hẳn, không còn một giọt nước? Hai là tại sao cây táo kia trước có quả táo vàng mà giờ không có đến một cái lá? Ba là tại sao bác lái đò kia cứ phải chở đò mãi, không có ai thay".

Bà già nói:

- Ba câu hỏi này khó thật, nhưng cháu cứ yên tâm, lắng tai nghe con quỉ nói khi ta nhổ ba sợi tóc vàng của nó nhé.

Đến tối con quỉ về nhà. Vừa vào cửa, nó đã ngờ ngợ thấy mùi gì lạ. Nó nói:

- Quái, ta ngửi như có mùi thịt người ở đây, có phải không?

Bà lão chế nó:

- Tôi vừa quét dọn ngăn nắp, bây giờ anh lại lục tung cả ra. Lúc nào mũi anh cũng chỉ ngửi thấy mùi thịt người. Thôi ngồi xuống ăn đi.

Ăn uống xong, con quỉ thấy mền mệt, tựa đầu vào gối bà già và bảo bà bắt chấy cho. Được một lát, nó thiu thiu ngủ rồi ngáy khò khò. Bà già nhổ một sợi tóc vàng của nó, để bên mình. Con quỉ hỏi:

- Ái chà, bà làm gì thế?

Bà lão nói:

- Tôi mộng thấy sự không lành, nên tôi đã nắm tóc anh đấy.

Con quỉ hỏi:

- Bà mộng thấy gì?

- Tôi nằm mộng thấy giếng ở chợ trước kia thường chảy ra rượu vang, nay cạn hẳn, đến một giọt nước cũng không còn? Tại sao thế?

Con quỉ đáp:

- Chà! Nếu biết thì đã chẳng nên chuyện. Dưới tảng đá ở đáy giếng có một con cóc. Đem giết nó đi thì rượu vang lại chảy ra.

Bà lão lại bắt chấy cho con quỉ. Quỉ lại ngủ, ngáy rung cả cửa kính. Bà già lại nhổ một sợi tóc nữa. Quỉ cáu, nói:

- Ô hay, làm gì thế?

Bà lão đáp:

- Anh đừng giận nhé, tôi lại mộng đấy mà.

- Lại mộng gì nữa thế?

- Tôi thấy ở một nước nọ có một cây táo trước kia thường vẫn ra quả vàng mà nay đến một cái là cũng chẳng còn. Tại sao thế?

- Chà! Nếu biết thì đã chẳng nên chuyện. Có một con chuột nhắt gặm rễ cây. Giết nó đi thì cây lại ra quả vàng. Nếu để chuột gặm mãi thì cây đến chết mất. Nhưng thôi, đừng có mơ mộng gì nữa nhé, để cho tôi ngủ yên, nếu còn làm tôi thức giấc, tôi sẽ tát cho đấy.

Bà lão dỗ dành con quỉ, rồi lại bắt chấy cho nó. Nó lại ngủ và ngáy. Bà nhổ sợi tóc vàng thứ ba của nó. Con quỉ chồm dậy, kêu lên và toan đánh bà, nhưng bà lại nói ngọt rằng:

- Khốn nỗi cứ mộng mãi thì biết làm thế nào?

Con quỉ tò mò hỏi:

- Bà còn mộng thấy gì nữa?

- Tôi chiêm bao thấy có một người lái đò than phiền là cứ phải chở đò qua lại mãi mà không có người thay. Tại sao thế?

Quỉ đáp:

- Ngốc quá. Nếu có ai muốn qua sông, thì hắn chỉ việc trao mái chèo cho người ấy là thoát, và người kia sẽ chở đò thay hắn thôi.

Sau khi đã nhổ ba sợi tóc vàng của con quỉ và đã được nghe nó trả lời ba lần, bà già để cho nó ngủ đến sáng. Con quỉ bước chân ra khỏi cửa, thì bà liền bắt con kiến ở trong
nếp áo bà ra, hóa phép biến nó lại thành người. Bà lão nói:

- Đây ba sợi tóc vàng đây, còn ba câu trả lời của con quỉ thì cháu nghe được rõ rồi chứ?

Chàng đáp:

- Vâng, cháu đã nghe rõ rồi, cháu sẽ nhớ kỹ.

Bà lão bảo:

- Thôi thế mày thoát rồi nhé. Lên đường về được rồi đấy.

Chàng cảm ơn bà lão đã giúp đỡ mình trong cơn hoạn nạn. Chàng đi khỏi âm phủ, Trong lòng phấn khởi vì mọi việc đều được như ý.

Chàng gặp bác lái đò, bác xin chàng giải đáp cho như chàng đã hứa. Chàng tốt số nói:

- Bác hãy chở tôi sang bờ bên kia, tôi sẽ bảo bác cách giải thoát.

Tới bờ, chàng cho bác biết câu trả lời của con quỉ:

- Nếu có người muốn qua sông thì bác chỉ việc đặt mái chèo vào tay người ấy rồi đi.

Chàng lại lên đường, đến thành phố có cây trụi quả. Lính canh cũng đang chờ chàng giải đáp. Chàng nhắc lại lời của con quỉ:

- Giết con chuột nhắt gặm rễ cây đi, thì cây lại ra quả táo vàng.

Họ cám ơn chàng và biếu chàng hai con lừa tải nặng vàng. Sau cùng, chàng đến thành phố có giếng cạn. Chàng cũng nhắc lại lời con quỉ:

- Có một con cóc ngồi dưới hòn đá ở đáy giếng, phải tìm nó giết đi, thì rượu vang lại chảy ra nhiều.

Lính canh cảm ơn chàng và cũng tặng chàng hai con la trở nặng vàng.

Chàng về tới nhà; vợ chàng vui mừng khôn xiết, vì lại trông thấy mặt chồng và thấy chồng đi gặp được mọi việc đều như ý. Chàng dâng vua ba sợi tóc vàng của con quỉ. Vua thấy bốn con la tải nặng vàng, mừng lắm, nói:

- Nay con đã làm xong mọi việc ta giao cho, thì con vẫn được lấy con gái ta. Này con, con lấy đâu ra nhiều vàng thế? Thật là một kho tàng vô giá!

- Con lấy ở bên kia sông, đó là cát trên bờ.

Vua tham lam, hỏi:

- Ta có lấy được không?

Chàng rể đáp:

- Bẩm muốn lấy bao nhiêu cũng được ạ. Bệ hạ bảo người chở đò đưa sang bờ bên kia thì tha hồ lấy.

Ông vua tham lam kia vội lên đường ngay. Đến bờ sông, vua ra hiệu cho bác chở đò đưa qua sông. Người lái đò mời vua xuống thuyền. Khi sang đến bờ bên kia, bác đặt mái chèo vào tay vua rồi nhảy lên bờ. Thế là ông vua, vì tham của mà chịu tội thành anh lái đò.

- Thế vua còn chèo đò nữa không?

- Sao! Thì đã có ai cầm mái chèo cho nhà vua đâu!

Các em vừa được đọc một câu truyện thật là hấp dẫn. Chàng trai trong truyện có xứng đáng làm Vua của một nước sau khi ông Vua tham lam và độc ác trở thành người lái đò không? Chàng là một con người dũng cảm, nhân hậu và có trái tim tràn ngập tình yêu nên chàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc, đúng không nào?



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:28  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Cuộc ngao du của tí hon


Grim




Một bác thợ may có đứa con trai, người chỉ bằng ngón tay cái, vẫn gọi là Tí hon. Tí hon rất can đảm. Một hôm nó thưa bố:

- Bố ơi, con phải đi ngao du thiên hạ một phen mới được!

Ông bố già đáp:

- Được thôi, con ạ!

Bác lấy cái kim thêu, hơ lên ngọn nến, đính một cái núm bằng xi vào đó rồi đưa cho con, bảo:

- Đây cho con thanh kiếm đi đường.

Tí hon còn muốn ăn với bố mẹ bữa nữa, nên nó nhảy xuống bếp xem mẹ nó nấu gì. Nhưng nồi vừa mới đặt lên bếp, Tí hon hỏi mẹ:

- Mẹ ơi, có gì ăn thế?

Bà mẹ bảo:

- Con hãy ngó vào xem.

Nhảy tót lên bếp, vươn cổ dòm vào nồi. Nó vươn mãi cổ vào sâu quá, hơi thức ăn bay nghi ngút cuốn luôn nó lên ống khói. Nó ngồi ngất ngưởng trong đám hơi, cứ thế lơ lửng mãi trên không, lúc lâu sau mới rơi xuống. Thế là chú bé con bác thợ may có dịp đi ngao du thiên hạ.

Chú đi đây đi đó, rồi đến xin tập việc một người thợ cả. Nhưng ở đây họ cho chú ăn chẳng được ngon. Chú nói với bà chủ nhà:

- Bà chủ ạ, bà không chịu cho tôi ăn khá hơn thì nhất định tôi sẽ đi. Sáng mai tôi sẽ lấy phấn viết ngay trước cửa nhà:

Khoai khá nhiều, thịt khá ít,
Thưa đức vua khoai, tôi xin vĩnh biệt.

Bà chủ giận lắm, quát:

- Con chấu ranh kia, mày còn muốn gì hử?

Bà rút cái giẻ lau, định quất chú. Nhưng chú đã mau lẹ bò lên cái bao ngón tay của bà, rồi từ trên đó chú dòm xuống, thè lưỡi nhạo bà. Bà tháo bao định chộp chú thì chú lại tót sang cái giẻ mất rồi. Thừa lúc bà giũ giẻ tìm chú, chú trốn luôn xuống kẽ bàn. Chú thò đầu lên, giễu bà:

- Ê! Bà chủ ơi!

Lúc bà sắp đánh, chú lẩn xuống ô kéo. Nhưng rồi bà cũng tóm được và tống chú ra khỏi cửa.
Tí hon lại đi lang thang. Đến cánh rừng kia, chú gặp kẻ trộm đang bàn nhau đi ăn trộm của vua. Chợt thấy Tí hon, bọn kẻ trộm sực nghĩ: "Thằng nhãi ranh này nhất định chui lọt lỗ khóa, có thể dùng nó thay chìa khóa giả được đây". Một tên gọi:

- Này, ông khổng lồ Gôliat ơi, có muốn nhập với bọn mình đến kho của báu không? Ông có thể chui vào ném tiền ra cho bọn này.

Tí hon nghĩ một lát rồi bằng lòng nhận. Chú đi với chúng. Đến nơi, chú ngắm kỹ cửa trên, cửa dưới xem có cái kẽ nào không. Tìm hồi lâu thấy một khe hở, cũng khá rộng, đủ cho chú lọt qua. Chú đã sắp chui vào thì bị một tên lính canh cửa nhìn thấy. Nó bảo tên kia:

- Xem kìa, có con nhện gớm ghiếc đương bò kia kìa. Tao phải dẫm chết nó mới được!

Tên kia can:

- Thôi mặc nó, kẻo tội nghiệp. Nó có làm gì mày đâu!

Thế là Tí hon lọt được vào trong kho. Chú mở cửa sổ chỗ bọn kẻ trộm đợi rồi nhặt tiền ném ra, cứ từng đồng một. Đương lúc mê mải chợt có tiếng chân vua vào soát kho. Tí hon vội chuồn ngay. Vua soát, biết là có nhiều đồng tiền dày đã bị mất nhưng không thể hiểu kẻ nào đã lấy, vì lẽ then khóa vẫn y nguyên không có chút dấu hiệu suy chuyển. Vua đành ra lệnh cho hai tên lính:

- Bay phải coi chừng, có kẻ rình lấy tiền đấy!

Lúc Tí hon tiếp tục hoạt động thì bọn lính đứng ngoài rình nghe thấy tiếng vàng rơi xủng xoẻng. Chúng vội nhảy vào kho để bắt kẻ trộm. Nhưng Tí hon nhanh hơn, đã tót được vào một xó, khuân một đồng tiền lấp lên mình. Chú trêu bọn lính:

- Tớ đây cơ mà!

Lúc bọn lính xô tới thì chú lại chuồn sang xó khác, léo nhéo gọi:

- Này, tớ đây cơ mà!

Bọn lính đến thì chú đã sang xó thứ ba từ lâu rồi. Chú lại gọi:

- Này, tớ đây kia mà!

Cứ thế, Tí hon dử cho hai tên lính chạy quanh đến mệt lử và phải bỏ cuộc. Chú tiếp tục ném tiền ra ngoài cho bọn trộm hết đồng này đến đồng khác. Còn lại đồng cuối, chú ra sức quăng mạnh, đoạn nhảy liền theo, cưỡi tiền bay vút qua cửa sổ. Bọn trộm hết lời tán tụng chú:

- Quả là tay anh hùng! Chú có muốn là chủ tướng không?

Tí hon cảm ơn. Chú nói, chú còn muốn đi ngao du thiên hạ đã. Bọn trộm chia nhau số tiền. Tí hon chỉ lấy phần mình có một đồng, vì có lấy nữa chú cũng chẳng mang nổi. Chú buộc lại thanh kiếm bên sườn, chào bọn cướp rồi ra đi. Chú đến nhà mấy bác thợ cả nữa xin làm. Nhưng ở đâu cũng chóng chán. Sau cùng chú đến làm cho một quán trọ. Đám hầu gái nhà
này không ai ưa chú, chỉ vì họ không nhìn thấy chú, thế mà ai bí mật làm gì chú đều biết hết. Chú lại hay mách chủ những chuyện họ ăn uống vụng trộm, hoặc ăn cắp dưới hầm. Họ vẫn đe:

- Liệu hồn! Thế nào cũng có bữa cho mày chết đuối.

Họ bảo nhau xỏ Tí hon một vố. Một hôm, chú đương mải miết nhảy nhót, leo trèo giữa đám cỏ dại ngoài vườn thì bị một cô hầu ra cắt cỏ bắt gặp. Tiện tay cô vơ luôn cả Tí hon với cỏ, buộc túm vào một cái khăn lớn rồi ném cho bò. Một con bò mộng đen nuốt chửng Tí hon vào bụng. Chú không bị đau đớn gì nhưng nằm trong ấy thật khó chịu quá, tối như bưng. Đợi lúc có người vào vắt sữa, chú ra sức gào: “Tơrip, torắp, torôn! Sắp đầy thùng chưa?” Tiếng sữa tia rào rào, át mất tiếng chú nên không ai nghe thấy. Lát sau, chủ quán vào bảo:

- Mai thịt con bò này!

Tí hon sợ quá, lại gân cổ gào:

- Thả tôi ra đã, tôi ở trong này mà!

Chủ quán nghe thấy, nhưng không biết ai gọi ở đâu. Bác hỏi lại:

- Ở đâu thế?

Tí hon vội đáp:

- Trong bụng con đen ấy mà!

Chủ quán không hiểu nghĩa câu nói, bỏ đi. Sáng hôm sau, họ thịt con bò đen. Cũng may lúc họ hạ bò rồi xả thịt, không có nhát dao nào chém phải Tí hon. Chú bị lẫn trong đống thịt để tra dồi. Lúc người thợ băm dồi vào sắp làm, chú ra sức bình sinh gào:

- Đừng băm sâu quá! Đừng băm sâu quá! Tôi ở dưới đấy!

Nhưng vì dao băm đã gõ rộn lên nên chẳng ai nghe được tiếng chú gọi. Giờ mới thật nguy cho chú, nhưng thói thường có khó mới ló cái khôn, chú nhảy tránh rất tài giữa các đường dao, khiến chẳng một nhát nào chạm được vào người chú. Chú thoát chết. Tuy thế, chú vẫn chưa nhảy ra ngoài được. Chú bị họ tra lẫn với miếng mỡ vào một khoanh dồi tiết. Trong khoanh dồi chật chội quá, đã thế họ lại còn mắc lên ống khói lò bếp để hun cho kỹ. Tí hon thấy thời gian
lúc này mới dài làm sao! Nhưng rồi cũng đến mùa đông, họ tháo khoanh dồi xuống. Nhà có khách, họ định đem dồi đãi khách. Lúc bà chủ thái dồi, sợ lưỡi dao xoẹt ngang một nhát. Chờ lúc thuận lợi, chú lấy hơi nhảy tót ra ngoài. Chú không muốn ở lại nhà ấy nữa, nơi chú đã phải chịu bao điều đen đủi. Tí hon lại đi giang hồ. Nhưng cuộc đời tự do của chú cũng chẳng được bao lâu nữa. Chú đang lang thang giữa đồng thì chạm trán phải một con cáo, nó đớp luôn chú. Chú vội van nài:

- Bác cáo ơi, tôi đấy mà, chả bõ cuống họng bác, chi bằng bác thả tôi ra!

Cáo đáp:

- Mày nói cũng có lý. Ăn mày cũng như không ăn gì. Mày hứa cho tao mấy con gà ở nhà bố mày đi, tao sẽ thả.

Tí hon đáp:

- Tôi rất sẵn lòng, nhà có bao nhiêu gà sẽ xin tạ bác hết.

Cáo bèn thả chú ra, lại thân đưa chú về nhà. Ông gặp lại con mừng quá, nhà có bao nhiêu gà biếu cáo tất. Tí hon đưa cho bố đồng tiền vàng mà chú đã kiếm được trong chuyến đi vừa rồi.

- Con có đồng tiền rất đẹp để đến cho bố đây này. Nhưng sao bố lại chịu để cáo nó thịt hết cả đàn gà con của nhà?

- Ôi, thằng ngốc! Con là đứa con đẻ đứt ruột của bố, lý nào bố lại quí đàn gà ngoài sân hơn cả con trai.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:29  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Con rắn trắng


Grim




Ngày xưa có một ông vua nổi tiếng trong cả nước là khôn ngoan. Không cái gì là vua không biết, dường như gió đưa lại cho vua những tin tức bí mật nhất. Vua có một thói quen kỳ lạ. Sau bữa ăn trưa, khi đã dọn bàn xong, không còn ai nữa thì một người hầu tin cẩn bưng thêm vào cho vua một bát. Bát đậy kín, ngay người hầu cũng không biết trong có gì. Cũng chẳng ai được biết, vì vua đợi đến khi chỉ còn một mình mới mở ra ăn. Cứ thế mãi tới một hôm, người hầu quá tò mò, khi bưng bát không nhịn được nữa, đem bát về buồng mình. Anh ta khóa cửa cẩn thận rồi mở nắp ra, thấy ở trong có một con rắn trắng. Anh giữ mồm không được, muốn nếm thử bèn cắt một miếng bỏ mồm. Anh vừa động lưỡi thì nghe thấy ở bên cửa sổ có tiếng nói rì rào là lạ. Anh lại nghe, thì ra chim sẻ chuyện trò với nhau, kể cho nhau nghe chúng đã thấy gì ở đồng ruộng và ở núi rừng. Thì ra chính vì anh ta ăn rắn mà hiểu được tiếng nói loài vật.

Đúng ngày hôm đó, hoàng hậu mất chiếc nhẫn đẹp nhất và nghi cho người hầu tin cẩn ấy ăn cắp vì anh ta vẫn được đi lại tự do trong cung. Vua truyền gọi anh đến, mắng anh thậm tệ, hẹn cho đến sáng hôm sau nếu không tìm ra được kẻ gian thì sẽ bị coi là thủ phạm và đem xử tội. Anh kêu oan cũng vô ích, và bị đuổi ra ngoài một cách tàn nhẫn. Anh lo sợ, xuống sân để nghĩ xem có cách nào thoát không. Ở đây có đàn vịt đang chụm nhau ngồi bên dòng nước vừa rỉa lông vừa chuyện trò bù khú. Anh người hầu đứng nghe. Vịt kể lể với nhau sáng nay lạch bạch đi đâu, tìm được món gì ngon. Một con cáu kỉnh nói:

- Bụng tao anh ách khó chịu quá. Trong lúc vội vã, tao nuốt phải cái nhẫn rơi ở dưới cửa sổ hoàng hậu.

Anh người hầu liền tóm ngay cổ con vịt ấy mang vào bếp bảo nhà bếp:

- Bác thịt con này đi nhé, nuôi béo lắm rồi đây!

Nhà bếp nhận lời, nhắc vịt lên xem đã nặng chưa rồi nói:

- Chú mày tọng cho đầy, đợi ngày được quay cũng đã lâu rồi đấy!

Bác ta chặt cổ, mổ vịt. Anh người hầu tìm thấy chiếc nhẫn của hoàng hậu trong mề vịt nên việc minh oan cũng dễ dàng. Nhà vua muốn đền bù cho anh, hỏi anh muốn gì và hứa phong cho anh chức tước cao nhất triều đình. Anh ta không nhận mặc dù còn trẻ và đẹp trai. Anh chán ngán không thiết ở lại nữa. Anh chỉ xin một con ngựa và ít tiền ăn đường đi chu du thiên hạ.

Một hôm, anh đi qua một cái ao thấy có ba con cá bị mắc vào đám sậy, đang thoi thóp. Người ta nói là cá thì câm, vậy mà anh lại nghe thấy chúng than vãn vì bị chết một cách bi thảm như thế. Anh vốn nhân từ, nên xuống ngựa gỡ cá thả xuống nước. Cá vui mừng quẫy, thò đầu lên kêu:

- Cám ơn ân nhân đã cứu chúng tôi, thế nào chúng tôi cũng xin trả ơn này!

Anh lại cưỡi ngựa đi. Đi một lúc chợt nghe như có tiếng nói ở trên cát, ngay dưới chân. Anh lắng tai nghe thấy kiến chúa than vãn:

- Giá loài người đừng để những con vật thô lỗ đụng đến mình có phải hay không. Cái con ngựa ngu ngốc này lại sắp lấy móng nặng giẫm nát trăm họ của ta mà không chút động lòng đây.

Anh bén tránh sang bên đường. Kiến chúa kêu:

- Cám ơn ân nhân, chúng tôi sẽ trả ơn này.

Đi qua rừng, anh thấy bố quạ và mẹ quạ đậu bên tổ vứt lũ quạ con xuống kêu:

- Cút đi, đồ chết đâm chết chém. Chúng tao không nuôi báo cô chúng mày mãi được. Nhớn rồi, liệu đi mà kiếm ăn lấy!

Tội nghiệp lũ quạ con nằm xoài dưới đất, cố vỗ cánh kêu. Chim con yếu ớt, bay còn chưa nổi, kiếm mồi làm sao được! Thôi thì đành nằm đây chờ chết đói vậy. Anh thanh niên xuống ngựa, rút gươm chém chết ngựa cho quạ con ăn. Quạ con nhảy tới ăn no nê rồi gọi:

- Cảm ơn ân nhân, chúng tôi sẽ trả ơn này.

Anh đành đi bộ, đi mãi tới một thị trấn lớn. Trong phố có tiếng ồn ào, nhân dân xô nhau nghe một người cưỡi ngựa đến báo là công chúa kén chồng, ai muốn hỏi phải làm một việc rất khó, nếu chẳng may không làm được thì toi mạng. Có nhiều người đã thử nhưng đều bị chết. Anh thanh niên trông thấy công chúa đẹp lộng lẫy mê mẩn cả người, quên hết nguy hiểm, đến tâu vua xin làm rể. Người ta đưa anh ra bể, vứt trước mặt anh một chiếc nhẫn vàng xuống nước. Nhà vua truyền cho anh mò chiếc nhẫn lên và phán:

- Nếu nhà ngươi lên tay không thì sẽ lại bị ném xuống bể cho đến khi chết đuối.

Mọi người đều tiếc cho đời chàng thanh niên đẹp trai. Chàng ở lại bờ bể một mình nghĩ xem nên làm gì thì bỗng thấy có ba con cá bơi lại. Chính là ba con cá mà anh đã cứu trước đây. Con bơi giữa ngậm ở mồm một con hến và đặt hến lên bãi bể bên chân chàng. Chàng cầm hến lên mở ra thì thấy ở trong có chiếc nhẫn vàng. Chàng mừng lắm đem nhẫn dâng vua, tưởng nhà vua giữ lời hứa thưởng cho mình. Nào ngờ công chúa vốn kiêu kỳ, thấy chàng không phải môn đăng hộ đối, khinh rẻ chàng và bắt chàng phải làm việc khó thứ hai. Nàng vào vườn, rắc mười bị kê xuống cỏ và bảo:

- Từ giờ đến sớm mai, trước khi mặt trời mọc, anh phải nhặt cho kỳ hết kê, không được thiếu hạt nào.

Anh thanh niên ngồi trong vườn nghĩ mãi không biết làm như thế nào. Anh rầu rĩ ngồi đợi sáng cho người ta dẫn ra pháp trường. Ánh bình minh vừa chiếu vào vườn thì anh thấy mười bị kê đầy xếp cạnh nhau, không thiếu hạt nào. Thì ra đêm ấy, kiến chúa đã cùng hàng nghìn vạn kiến quân kéo đến. Các con vật biết ơn đã cần cù nhặt kê bỏ bị. Công chúa đích thân xuống vườn xem. Nàng hết sức ngạc nhiên thấy anh thanh niên đã làm được việc mình giao cho.
Nhưng nàng vẫn chưa hết kiêu kỳ, lại bảo:

- Tuy anh đã làm được hai việc, nhưng muốn lấy ta thì còn phải dâng ta một quả táo trường sinh .

Anh không biết cây ở đâu, nhưng cũng đành lên đường nhắm mắt đưa chân một cách tuyệt vọng. Anh đã đi qua cả nước, một tối kia tới một khu rừng. Anh ngồi xuống gốc cây, định đánh một giấc. Bỗng thấy trên cành cây có tiếng rào rào, rồi một quả táo vàng rơi vào tay anh. Cùng lúc có ba con quạ bay xà xuống, đậu lên đầu gối anh nói:

- Chúng tôi là ba quạ con mà ân nhân đã cứu khỏi chết đói. Chúng tôi nay đã lớn, thấy ân nhân đi tìm quả táo trường sinh, vội vượt bể đến tận cùng thế giới là nơi có cây trường sinh để hái quả táo này.

Anh thanh niên mừng lắm, mang táo về dâng công chúa xinh đẹp. Nàng không còn hoạch họe gì được nữa, đem cắt đôi quả táo cùng anh ăn. Lòng nàng bỗng tràn ngập tình yêu. Hai vợ chồng hưởng hạnh phúc cho đến lúc đầu bạc răng long.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:30  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Ba cô chị


Grim





Ngày xưa có một ông vua rất giàu, vua giàu đến nỗi tưởng là của cải của mình không bao giờ hết được. Vua sống xa hoa, chơi bàn cờ bằng vàng, con ki bằng bạc. Vua sống như thế một thời gian thì của cải tiêu tan hết. Vua phải đem cầm lần lần những thành thị và lâu đài, sau cùng chỉ còn có mỗi một tòa lâu đài cổ trong rừng. Vua, hoàng hậu và ba công chúa dọn đến đấy ở, họ sống chật vật, hàng ngày bữa ăn chỉ có khoai tây thôi. Một hôm, vua định đi săn xem có bắn được con thỏ gì chăng. Vua nhét khoai tây đầy túi rồi ra đi. Vua đến ven một khu rừng lớn không dám vào vì người ta kể rằng trong đó có nhiều thú rùng rợn lắm. Gấu ăn thịt người, phượng hoàng mổ mắt, chó sói, sư tử và nhiều loại thú dữ. Vua chẳng sợ gì cả, tiến thẳng vào rừng. Thoạt tiên vua không thấy gì. Có những cây to, ở dưới thật là yên lặng. Vua đi vơ vẩn như vậy một lúc rồi thấy đói, liền ngồi xuống gốc cây định ăn khoai tây, thì bỗng có một con gấu ở trong rừng hiện ra, lạch bạch đến thẳng phía vua và càu nhàu:

Sao ngươi lại dám ngồi ở gốc cây mật ong của ta? Tội ngươi thật đáng chết.

Vua sợ hãi, đưa cho nó khoai tây để nó nguôi giận. Nhưng gấu cất tiếng nói:

-Ta thiết gì ăn khoai tây của ngươi, ta muốn ăn thịt ngươi cơ. Ngươi chỉ có một cách thoát thân là gả cho ta con gái đầu lòng của ngươi. Nếu ngươi bằng lòng thì ta còn cho thêm ngươi nửa tạ vàng nữa.

Vua sợ bị ăn thịt nói:

- Ta sẽ gả cho, miễn là ngươi để cho ta yên lành.

Gấu liền chỉ đường cho vua về và còn càu nhàu sau lưng vua.

- Trong bảy ngày nữa, ta sẽ đến đón cô dâu đấy.

Vua yên trí về nhà, nghĩ nhất định là gấu không chui lọt nổi loa khóa, hơn nữa nhất định là không có cái gì để ngỏ. Vua ra lệnh cho khóa tất cả các cửa ngoài, kéo cầu treo lên, và dặn con gái phải bình tĩnh. Muốn bảo vệ được cô chắc chắn khỏi bị chú rể gấu bắt đi, vua cho cô ở một phòng nhỏ tít dưới lỗ châu mai trên mặt thành. Cô phải trốn vào đấy cho qua bảy hôm. Nhưng sáng tinh sương hôm thứ bảy, khi mọi người con ngủ thì có một cỗ xe lộng lẫy đóng sáu ngựa đến lâu đài. Có nhiều kỵ sĩ mặc áo bằng vàng vây quanh xe. Cỗ xe đến nơi thì tự nhiên cầu treo hạ xuống, khóa tự nhiên bật tung ra, xe đi vào sân, một vị Hoàng tử trẻ và đẹp bước xuống. Vua nghe tiếng động tỉnh dậy, nhìn ra cửa sổ thấy Hoàng tử đã đón con gái đầu lòng của mình ở tít trên căn phòng nhỏ khóa kín, và vừa bế nàng lên xe. Vua chỉ kịp kêu lên:

Thôi vĩnh biệt, thiếu nữ yêu kiều.
Đi đi mãi, hỡi cô dâu của gấu!

Cô ngồi trên xe còn vẫy chiếc khăn trắng nhỏ. Rồi cỗ xe phóng đi như gió cuốn, tiến sâu mãi vào khu rừng thiêng. Lòng vua nặng trĩu, vì vua đã trót gả con gái cho gấu. Vua buồn quá, cùng hoàng hậu khóc ba ngày liền. Đến ngày thứ tư, khóc hết nước mắt, vua nghĩ là việc đã xảy ra rồi cũng đành thôi. Vua xuống sân, ở đấy có một cái hòm gỗ mun nặng khó mà nhấc lên được. Vua chợt nghĩ đến điều gấu đã hứa, liền mở ra thì thấy trong đó có nửa tạ vàng sáng lấp lánh. Vua nhìn thấy vàng thì cũng nguôi buồn. Vua đem vàng chuộc lại các thành thị đã đem cầm rồi lại quay về cuộc sống giàu sang ngày trước. Cứ như thế cho đến khi hết nửa tạ vàng thì vua lại phải đem cầm hết mọi thứ và lại phải lui về lâu đài trong rừng ăn khoai tây.
Vua còn có một con chim ưng. Một hôm, vua đem nó ra đồng định kiếm lấy một cái gì ăn cho ngon một tí. Chim ưng cất cánh bay, tới khu rừng thiêng âm u, vua không dám vào nữa. Vua vừa tới thì có một con đại bàng vút lên đuổi chim ưng. Chim ưng bay về phía vua. Vua định dùng giáo ngăn đại bàng, nhưng đại bàng quắp lấy giáo bẻ gẫy như một cây sậy, rồi lấy móng bóp nát chim ưng. Nó lấy móng kia quặp vào vai vua và bảo:

- Tại sao ngươi đến quấy rối khoảng trời của ta? Tội ngươi đáng chết, muốn sống phải gả cho ta con gái thứ hai của ngươi.

Vua nói:

- Được, ngươi sẽ được con gái ta, nhưng ngươi cho ta gì.

Đại bàng đáp:

- Một tạ vàng. Trong bảy tuần nữa ta sẽ đến đón nàng về.

Rồi nó thả vua ra, bay thẳng vào rừng.

Vua rất buồn bã vì lại gả con gái thứ hai của mình cho chim dữ. Vua không dám nói gì với con về việc ấy. Sáu tuần lễ đã trôi qua. Đến tuần thứ bảy, công chúa ra một bãi cỏ trước lâu đài định giũ vải phơi cho trắng. Bỗng có một đỗân kỵ sĩ oai phong lẫm liệt đến. Người đẹp nhất đi đầu nhảy xuống gọi:

Hãy nhảy lên đây, hỡi thiếu nữ yêu kiều
Hãy cùng đi, hỡi cô dâu mới của đại bàng.

Nàng chưa kịp trả lời thì chàng đã đỡ nàng lên ngựa, phi vào rừng nhanh như cắt. Thôi vĩnh biệt, vĩnh biệt!

Ở lâu đài, người ta đợi mãi chẳng thấy công chúa. Mãi sau vua mới nhớ ra là có lần trong thế bí đã hứa gả con gái cho một con đại bàng. Hẳn là nó đã đến đón cô đi. Khi vua đỡ đau buồn chút ít, chợt nhớ đến lời hứa của chim đại bàng, liền đi đến và tìm thấy trên bãi cỏ hai quả trứng vàng, mỗi quả nặng nửa tạ. Vua nghĩ bụng: "Cứ có vàng là ngoan đạo" và xua đuổi tất cả những tư tưởng buồn chán ra khỏi đầu óc. Cuộc sống vui chơi lại bắt đầu và đến khi hết nhẵn tạ vàng. Vua lại dọn về lâu đài trong rừng và nàng công chúa còn lại lại phải luộc khoai tây. Vua không muốn đi săn thỏ trong rừng hay chim ưng trên trời nữa, nhưng vua thèm ăn cá. Công chúa phải đan lưới để vua đi đánh cá ở một cái hồ gần rừng. Ở đó có một chiếc thuyền quăng lưới, kéo lên được một mẻ cá hương chấm đỏ rất đẹp. Vua định chèo vào bờ thì
thấy thuyền mắc chặt một chỗ, vua loay hoay mãi mà không trèo ra được. Bỗng có một con cá voi to lớn vùng vẫy ngoi lên hỏi:

- Tại sao ngươi lại bắt những thần dân của ta? Tội ngươi thật đáng chết!

Nó mở mồm to ra như định nuốt cả vua lẫn chiếc thuyền. Vua thấy cái mồm kinh khủng của nó thì mất hết cả can đảm, chợt nghĩ đến cô gái thứ ba liền kêu lên:

- Ngươi tha chết cho ta, ta sẽ cho ngươi con gái út của ta .

Cá voi càu nhàu:

- Được lắm, để rồi ta cho ngươi cái gì nhé. Vàng thì ta chẳng có vì vàng đối với ta xoàng quá. Nhưng đáy hồ của ta rải ngọc châu, ta sẽ cho ngươi ba bị đầy. Đến tháng thứ bảy ta sẽ lại đón dâu.

Nói xong con cá lặn xuống.

Vua ghé vào bờ, mang cá hương về nhà, nhưng khi cá đã rán rồi vua chẳng thiết ăn con nào. Vua nhìn thấy con gái, đứa con độc nhất còn lại, đẹp nhất, mà vua yêu nhất, thì vua lại nhói lên như hàng ngàn mũi dao đâm vào thịt. Sáu tháng trôi qua, hoàng hậu và công chúa chẳng hiểu làm sao mà vua mắt mũi lúc nào cũng ủ rũ. Đến tháng thứ bảy, đúng lúc công chúa đang đứng ngoài sân, trước một cái giếng có ống phun nước và hứng một cốc nước đầy thì bỗng có một cỗ xe sáu ngựa trắng và người mặc quần áo bằng bạc đi tới. Từ trên xe bước xuống một Hoàng tử rất đẹp, từ thủa nhỏ nàng không thấy ai đẹp đến như thế. Chàng xin nàng một cốc nước. Nàng vừa đưa cốc ra thì chàng ôm lấy nàng bế lên xe. Xe ra cửa băng qua đồng tới hồ:

Thôi vĩnh biệt, thiếu nữ yêu kiều!
Hãy đi đi, cô dâu xinh đẹp của cá voi.

Hoàng hậu đứng bên cửa sổ nhìn thấy cỗ xe chạy xa dần. Bà thấy vắng con gái, lòng đau xót, bà gọi nàng, tìm nàng khắp nơi. Nhưng bà chẳng nghe thấy tiếng đáp, chẳng trông thấy nàng ở đâu. Khi bà biết chắc chắn sự việc, bà òa lên khóc. Vua nói rõ cho bà biết đầu đuôi: chắc con cá voi đã đến đón nàng đi. Bị buộc phải hứa gả con cho nó, vua cứ luôn luôn buồn bã. Vua muốn an ủi bà, bèn cho bà biết sẽ nhận được nhiều của cải. Hoàng hậu không thiết và bảo đứa con còn lại duy nhất của bà quí hơn tất cả những kho tàng trên thế gian.

Trong khi Hoàng tử cá voi đến chiếm công chúa, có thị vệ mang đến lâu đài ba bao nặng. Vua mở ra thấy đầy châu ngọc to bằng hạt đậu lớn. Vua lại giàu có, giàu hơn trước kia. Vua chuộc lại thành thị, lâu đài, nhưng vua không trở lại cuộc sống xa hoa nữa. Vua sống yên tĩnh, tiết kiệm. Mỗi khi nghĩ đến ba con gái yêu, không biết sống giữa đám thú rừng ra sao, có thể bị chúng ăn thịt rồi, thì vua mất hết niềm vui. Không ai an ủi được hoàng hậu. Hạt lệ bà khóc con còn nhiều hơn cả các hạt ngọc cá voi đã bỏ ra đổi lấy công chúa út. Về sau, bà mới hơi nguôi nguôi. Cách đó một thời gian, bà lại thật vui vì bà lại sinh được một cậu con trai xinh đẹp. Đứa con ra thật bất ngờ nên gọi nó là Rainan, có nghĩa là đứa con kỳ diệu.

Đứa trẻ khỏe mạnh to lớn. Hoàng hậu thường kể cho nó nghe việc ba chị bị ba con vật bắt giữ ở trong khu rừng thiêng. Khi cậu mười sáu tuổi, cậu đòi vua cho áo giáp và gươm. Được những thứ đó rồi, cậu muốn đi phiêu lưu, cậu từ biệt cha mẹ rồi lên đường. Cậu đi thẳng đến khu rừng thiêng, chỉ nghĩ đến việc tìm các chị. Lúc đầu, cậu đi lang thang trong rừng rậm, không gặp một người nào hay một con vật nào. Sau ba ngày, cậu thấy ở trước một cái hang một thiếu phụ ngồi chơi với một con gấu con. Một con gấu khác rất bé ngồi trên đùi nàng. Rainan nghĩ bụng chắc là chị cả mình. Cậu để ngựa lại, đi bộ đến và nói:

- Chị yêu dấu, em là em Rainan của chị, em đến thăm chị đây.

Công chúa nhìn cậu, thấy cậu giống bố y hệt, không nghi ngờ gì lời cậu nói. Nàng sợ hãi bảo:

- Em yêu dấu ơi, trời ơi! Nếu em còn muốn sống thì em hãy chạy đi cho nhanh. Nếu anh gấu, chồng chị về thấy em thì nó ăn thịt em không chút động lòng đâu.

Nhưng Rainan bảo:

- Em không sợ, em nhất định ở lại với chị xem tình hình chị ra sao.

Khi công chúa thấy không lay chuyển được ý chí của em, nàng đưa em vào hang tối tăm, đúng là chỗ ở của gấu. Một bên có một đống là và cỏ khô, trên đó là nơi chồng cô và các con ngủ, bên kia là chiếc giường đẹp lộng lẫy, bọc vải đỏ và nạm vàng của công chúa. Nàng bảo em chui xuống gầm giường và tuồn cho em thức ăn. Được một chốc, gấu về nhà nói: "Ta đánh hơi thấy mùi thịt người" và định rúc đầu xuống gầm giường. Công chúa vội gọi:

- Cứ bình tĩnh, có ai mà lại vào đây được!

Mồm còn dính máu, gấu càu nhàu:

- Ta tìm thấy ở trong rừng một con ngựa và ăn thịt nó rồi. Tất phải có người đi với ngựa, ta đánh hơi thấy rồi.

Rồi nó lại định chui vào gầm giường. Nàng liền đá vào bụng gấu, nó lộn nhào một cái rồi đi ra ổ nằm, đút cẳng vào mồm mà ngủ.

Cứ bảy ngày một lần, gấu lại hiện nguyên hình là một Hoàng tử đẹp trai, hang của nó biến thành một tòa lâu đài lộng lẫy và thú vật trong rừng biến thành thị vệ, cứ đến ngày ấy, chàng đến đón công chúa. Những thiếu nữ xinh đẹp ra cửa lâu đài đón nàng, thật là một buổi hội tưng bừng, nàng vui mừng say sưa ngủ. Nhưng khi nàng tỉnh dậy thì thấy mình nằm trong hang gấu tối tăm, chồng đã biến thành gấu càu nhàu ở chân mình. Chỉ có cái giường và tất cả
các thứ khác mà nàng đã sờ đến là vẫn nguyên không biến. Thành thử nàng cứ sống sáu ngày trong đau khổ, đến ngày thứ bảy thì nàng được an ủi. Nhưng vì nàng còn trẻ, tuy chỉ được có một ngày, nàng cũng vui với cuộc sống. Nàng sinh được hai Hoàng tử sáu ngày hình gấu, chỉ ngày thứ bảy mới là hình người. Mỗi lần như thế nàng lại nhét đầy các thức ăn ngon lành, bánh trái hoa quả vào giường rơm để ăn suốt tuần, con gấu vâng lời nàng và nàng muốn gì
nó làm nấy.

Khi Rainan tỉnh dậy thì thấy mình nằm trên giường lụa, người hầu hạ chầu chực, mặc cho chàng quần áo sang trọng, vì hôm ấy đúng là ngày thứ bảy. Chị cậu cùng hai Hoàng tử xinh đẹp và anh rể gấu mừng rỡ bước vào vì thấy cậu đã đến. Thôi thì mọi thứ đều đẹp lộng lẫy, suốt ngày vui vẻ. Nhưng đến tối công chúa bảo:

- Em yêu dấu, bây giờ thì em liệu đi ngay đi! Đến tang tảng sáng, chồng chị sẽ lại biến ra gấu. Nếu sáng ngày, anh ấy vẫn thấy em còn ở đây, anh ấy sẽ không cưỡng lại bản chất gấu mà sẽ ăn thịt em đấy.

Hoàng tử gấu vừa tới đưa cho cậu vài sợi lông gấu mà dặn:

- Nếu gặp nạn thì em cứ sát lông vào người, anh sẽ đến cứu em ngay.

Mọi người hôn nhau từ biệt. Rainan lên một cỗ xe thắng sau ngựa đen, rồi đi. Đường đi vượt núi đèo, qua bãi hoang rừng rậm, qua bụi qua bờ, không dừng không nghỉ. Mãi cho đến lúc trời hửng sáng Rainan bỗng thấy mình trên mặt đất, ngựa xe biến mất. Đến khi trời sáng tỏ, cậu thấy sáu con kiến lật đật đi tới, tha một vỏ hạt dẻ. Rainan thấy mình vẫn ở trong rừng thiêng, cậu muốn đi tìm các chị. Cậu lại đi lang thang một mình trong hiu quạnh ba ngày,
nhưng chẳng được việc gì. Đến ngày thứ tư, cậu nghe thấy một con chim đại bàng bay rào rào rồi hạ xuống tổ. Rainan trốn trong bụi rậm, đợi đến lúc nó bay đi. Bảy giờ sau nó lại bay lên không. Rainan bèn nhoi ra, đến trước cây gọi:

- Chị yêu dấu, nếu chị ở trên đấy thì hãy lên tiếng cho em biết. Em là Rainan, em của chị đây, em đến tìm chị đây.

Cậu nghe có tiếng vọng từ trên xuống:

- Nếu em là Rainan, em yêu của chị mà chị chưa từng nhìn thấy, thì hãy lên đây với chị.

Rainan định trèo lên, nhưng thân cây to mà lại trơn quá. Cố trèo ba lần đều uổng công. Bỗng một cái thang tết bằng dây lụa được thả xuống. Cậu liền trèo lên tổ đại bàng. Tổ vương chắc như một chiếc bao lơn trên cây thùy dương. Chị cậu ngồi dưới một chiếc tán bằng lụa màu hồng. Trong lòng nàng ủ một quả trứng đại bàng, ấp cho nở. Hai người mừng rỡ. Nhưng một lúc sau, công chúa nói:

- Em yêu dấu ạ, thôi em mau mau đi ngay. Nếu đại bàng chồng chị thấy em thì anh ấy móc mắt ăn tim em mất.

Rainan đáp:

- Không, em cứ ở đây cho đến khi chồng chị biến thành người cơ.

- Việc ấy chỉ xảy ra trong sáu tuần nữa. Nhưng nếu em chịu được thì em cứ trốn vào trong thân cây rỗng, ngày ngày chị sẽ thả thức ăn xuống cho.

Rainan chui vào trong thân cây, công chúa ngày ngày thả thức ăn xuống cho cậu. Hễ đại bàng bay đi thì cậu lại trèo lên với chị. Sáu tuần sau đại bàng biến thành người. Rainan tỉnh dậy thấy mình nằm trên giường cũng như ở nhà anh rể gấu, nhưng có phần lộng lẫy hơn. Cậu sống bảy ngày rất vui vẻ ở nhà anh rể đại bàng. Đến ngày thứ bảy, từ biệt nhau, đại bàng cho cậu ba chiếc lông và dặn:

- Gặp cơn hoạn nạn, em hãy xát lông này vào người, anh sẽ lại cứu.

Rồi người anh rể cho người hầu đi chỉ đường cho cậu. Tới sáng, bỗng tất cả mọi người biến đâu hết cả, còn lại mình Rainan đứng trên đỉnh núi cao, giữa cảnh hoang vu rùng rợn. Rainan nhìn quanh, thấy ở xa mặt nước sáng như gương của một cái hồ lớn, phản chiếu những ánh nắng đầu tiên sáng loáng. Cậu nghĩ tới người chị thứ ba, chắc là chị ấy đấy. Cậu liền đi xuống, len lỏi qua các bụi cây và phiến đá. Cậu đi như vậy ba ngày. Lắm
khi cậu mất hút cả hồ. Nhưng đến sáng ngày thứ tư thì cậu tới bên hồ. Cậu đứng trên bờ kêu:

- Chị yêu dấu ơi, nếu chị có ở dưới đấy thì hãy lên tiếng, em là Rainan của chị đây, em đến thăm chị đây.

Nhưng không có ai trả lời. Tất cả đều im lặng. Cậu bẻ vụn bánh mì ném xuống nước bảo cá:

- Hỡi cá yêu dấu, hãy đi gặp chị ta, bảo là Rainan đứa trẻ kỳ diệu đã đến đây và muốn đi tới chỗ chị ở.

Nhưng cá hương chấm đỏ đớp bánh mì mà không nghe thấy cậu nói gì. Cậu thấy có chiếc thuyền liền cởi ngay áo giáp ra, chỉ cầm trong tay một thanh kiếm trần, nhảy xuống thuyền chèo. Cậu chèo mãi thì thấy một ống khói xây bằng thạch anh vọt lên trên mặt nước tỏa ra một mùi thơm êm dịu. Rainan liền chèo thuyền tới đó, chắc là chị mình sống ở dưới. Rồi cậu ngồi vào trong ống khói mà tụt xuống. Công chúa bỗng thấy hai chân người vung vẩy thì sợ quá. Một lát sau, nàng thấy cả thân người tụt xuống, cậu tự nhận là em nàng. Nàng sung sướng vô cùng, nhưng cũng rất buồn rầu bảo em:

- Cá voi đã biết tin là em định tìm chị và phàn nàn là nếu em đến đúng lúc anh ấy là cá voi, thì anh ấy sẽ thèm ăn thịt em, không nhịn được, anh ấy sẽ đập tan nhà bằng thạch anh của chị, chị cũng sẽ đến bỏ mình trong ngọn sóng.

- Thế chị có thể dấu em cho qua hạn phù phép không?

- Ấy chết, không được, vì em có thấy là tường bằng pha lê trong suốt không?

Nàng suy nghĩ mãi, chợt nghĩ đến buồng để củi. Nàng liền xếp củi thật khéo - trông ngoài không biết được, dấu đứa trẻ kỳ diệu vào trong. Một lát sau, cá voi đến. Công chúa run như lá liễu rung rung. Cá bơi mấy vòng quanh tòa nhà pha lê. Khi nó thấy mảnh áo của
Rainan trong đống củi lòi ra, nó quẫy mạnh đuôi, thở phì phò. Nếu nó mà nhìn thấy nhiều lần nữa, ắt là nó sẽ đập tan nhà ra. Ngày nào, cá voi cũng đến lượn quanh. Mãi cho đến tháng thứ bảy, hết phù phép. Rainan thấy mình ở trong một tòa lâu đài còn lộng lẫy
hơn cả lâu đài của đại bàng, ngay chính giữa có một hòn đảo đẹp đẽ. Cậu sống cả một tháng trời rất là vui vẻ cùng chị và anh rể. Một tháng sắp hết thì cá voi cho cậu ba cái vẩy mà dặn:

- Nếu em bị hoạn nạn, thì em cứ xát vẩy vào người, anh sẽ giúp em.

Rồi cá voi lại để cậu chèo vào bờ. Đến nơi, cậu thấy bộ áo giáp vẫn còn đó. Đứa trẻ kỳ diệu lại đi bảy ngày trong hoang vu. Trong bảy đêm, cậu ngủ ngoài trời. Bỗng cậu thấy một tòa lâu đài có cánh cổng bằng thép trên cửa có một cái khóa rất chắc. Phía trước có một con bò rừng mắt nảy lửa đang canh gác lối vào. Rainan xông đến, chém mạnh vào cổ nó, nhưng cổ nó bằng thép, gươm gãy tan ra từng mảnh như thủy tinh. Cậu dùng giáo đâm, nhưng giáo gãy vụn như là một sợi rơm. Bò rừng lấy sừng ghì cậu, tung cậu lên không, khiến cậu mắc lủng lẳng trên cành cây. Trong cơn nguy khốn Rainan chợt nhớ đến ba sợi lông gấu. Cậu xát lông vào bàn tay thì lập tức có một con gấu lạch bạch chạy ra, đánh bò rừng và xé nó ra. Nhưng từ trong bụng bò rừng có một con vịt trời vút lên không và bay đi thật nhanh. Rainan liền xát vào người ba cái lông đại bàng, lập tức có một con đại bàng reo mây bay đến đuổi theo con chim đang bay thẳng về phía một cái hồ, sà xuống nó và xé nhỏ nó. Nhưng Rainan thấy nó thả xuống nước một quả trứng vàng. Cậu
liền xát ba vẩy cá vào lòng bàn tay. Một con cá voi bơi lại ngay, ngậm quả trứng và nhô lên bờ. Rainan cầm lấy, dùng đá đập vỡ thì thấy trong đó có một chiếc chìa khóa nhỏ. Đó chính là chiếc chìa khóa mở được chiếc cửa bằng thép. Chìa khóa vừa đụng vào khóa thì cửa mở tung ra, Rainan bước vào. Cậu đi đến đâu, then cửa tự động bật ra đến đấy. Cậu qua bảy cửa, vào bảy phòng đẹp lộng lẫy, sáng trưng. Ở phòng cuối cùng, có một thiếu nữ nằm ngủ trên giường. Nàng đẹp tuyệt vời khiến cậu hoa mắt lên. Cậu định đánh thức nàng dậy, nhưng chỉ mất công vì nàng ngủ say như chết. Chàng tức quá đập vào một chiếc bảng đen ở bên giường. Thiếu nữ tỉnh dậy ngay, nhưng lại ngủ tiếp. Chàng liền cầm lấy bảng, ném lên nền đá, bảng vỡ tan nghìn mảnh. Ngay lúc đó, thiếu nữ mở mắt ra. Phép thuật tiêu tan. Thiếu nữ ấy là em gái của ba anh rể Rainan. Vì nàng không chịu yêu một tên phù thủy, nó đã bắt nàng ngủ say như chết và biến ba anh nàng thành ba con vật. Phù phép sẽ còn hiệu lực nếu bảng đen vẫn y nguyên. Rainan đưa nàng ra. Cậu vừa đến trước cửa thì các anh con rể cưỡi ngựa từ ba phía đi lại cùng vợ con. Nàng vợ đại bàng đã ấp xong trứng và ẵm lại một cô bé xinh đẹp. Mọi người đi tới gặp vua và hoàng hậu đã già.

Đứa trẻ kỳ diệu đưa ba chị về nhà, và cách đó ít lâu, chú kết hôn với nàng thiếu nữ xinh đẹp kia. Khắp nơi đều vui mừng, con mèo chạy về nhà, câu chuyện tôi kể đến đây là hết.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:31  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Đứa con vàng

Grim




Xưa có hai vợ chồng nhà kia rất nghèo. Của cải chỉ có độc một túp lều nhỏ. Ngày ngày hai người đi bắt cá, làm chẳng đủ ăn. Bỗng một hôm, người chồng thả lưới xuống nước cất lên được một con cá toàn vàng. Bác còn đang kinh ngạc ngắm nghía thì thấy cá lên tiếng nói:

- Này, bác đánh cá ơi, xin hãy ném trả tôi xuống nước, tôi sẽ biến túp lều nhỏ của bác thành một tòa lâu đài tráng lệ.

Bác đánh cá đáp:
- Ăn còn không có, lâu đài để làm gì?

Cá vàng nói tiếp:

- Tôi sẽ lo cả chuyện đó cho bác nữa. Trong nhà sẽ có một cái tủ. Bác cứ việc mở ra là đã sẵn thức ăn ngon trong đó rồi. Toàn cao lương mĩ vị, muốn bao nhiêu cũng có.

Bác đánh cá đáp:

- Nếu thế thì ta làm ơn cho mi cũng được thôi.

Cá nói:

- Vâng, song bác phải hứa với tôi một điều, bác không để lộ cho bất kì ai trên thế gian này biết sự may mắn của bác do đâu mà có. Chỉ cần bác hé ra một lời là bác sẽ lại mất hết.

Bác đánh cá bèn ném trả con cá thân xuống nước rồi về nhà. Tới nơi, bác chẳng thấy túp lều đâu nữa, giờ đây là cả một tòa lâu đài đồ sộ. Bác đứng nhìn hồi lâu rồi bước vào nhà thì gặp bác gái, quần áo lộng lẫy, đang ngồi trong một căn phòng vô cùng tráng lệ. Bác gái có vẻ hả hê lắm, cứ hỏi bác:

- Mình ơi sao bỗng dưng lại được thế này? Ôi sung sướng quá!

- Phải - bác đáp - Tôi cũng vui sướng. Nhưng này, đói lắm rồi đấy, dọn cái gì ăn đi.

Bác gái bảo:

- Tôi chẳng có gì đâu, mà cũng không biết trong tòa nhà mới này có gì hay không?

Bác trai nói:

- Không khó đâu, đằng kia có một cái tủ lớn, lại mở ra xem nào. Bác gái mở ra thì thấy bên trong nào bánh nào thịt, nào hoa quả, nào rượu nho như mời mọc.

Bác sướng quá kêu lên:

- Ta còn ước gì hơn nữa?

Hai người ngồi xuống cùng ăn uống. Ăn đã no, bác gái hỏi:

- Nhưng nhà này, của ở đâu thế?

- Chà - bác trai đáp - hỏi chuyện ấy làm gì, tôi không nói được đâu. Tôi mà hở ra cho ai biết thì chúng mình sẽ lại mất hết.

Bác gái nói:

- Được, nếu như không được phép biết thì tôi cũng chẳng thiết hỏi làm gì.

Tuy miệng nói thế nhưng bụng lại nghĩ khác, đêm ngày bác ta đứng ngồi không yên. Bác cứ giày vò thúc bác trai mãi, kỳ cho đến khi bác trai sốt ruột, kể cho bác biết câu chuyện con cá thần đã bị bắt, được thả như thế nào. Kể chưa dứt lời, tòa lâu đài tráng lệ với
cái tủ kia đã biến đâu mất. Hai người lại ngồi trong túp lều đánh cá cũ.

Người chồng lại phải bắt cá kiếm ăn. Dường như vận may đã định, bác lại bắt được con cá vàng phen nữa. Cá nói với bác:

- Này nếu như bác lại thả tôi thì tôi sẽ trả cho bác tòa lâu đài với cái tủ kia, đầy ắp những thứ nấu và rán cho bác. Bằng không sẽ lại mất hết.

Bác đánh cá đáp:

- Tôi sẽ cố giữ.

Bác ném con cá xuống nước. Về đến nhà, bác lại giàu có như trước. Bác gái hả hê vô cùng, song sự tò mò vẫn chưa thôi day dứt bác. Chỉ vài ngày sau, bác lại tỉ tê dò hỏi nguyên do sự việc. Bác trai mới đầu còn giữ, nhưng sau tức vợ quá bác kể tuột luôn mọi chuyện. Tức thì chỉ trong nháy mắt, tòa lâu đài biến mất, hai người lại ngồi trong túp lều cũ. Bác trai phàn nàn:

- Đã thấy chưa, giờ rồi đến chết đói.

Bác gái đáp:

- Ôi chà, thà không có của còn hơn có mà chẳng biết của từ đâu đến, bảo tôi im sao được.

Người chồng lại đi bắt cá. Ít lâu sau, bác lại bắt được con cá vàng lần thứ ba. Cá nói:

- Này, thế là cái phận tôi không thể thoát tay bác rồi. Bác cứ đem tôi về chặt làm sáu khúc, hai khúc cho bác gái ăn, hai khúc cho con ngựa của bác ăn, còn hai khúc chôn xuống đất rồi bác sẽ được phú quý.

Bác trai xách con cá về nhà, làm đúng theo lời căn dặn. Kết quả là sau đó hai khúc cá chôn dưới đất biến thành hai cây huệ vàng, con ngựa đẻ ra một đôi ngựa con bằng vàng và bác gái sinh được hai đứa con cũng toàn vàng. Hai đứa trẻ lớn lên nom vừa khỏe vừa đẹp, hai cây huệ với đôi ngựa con cũng lớn lên.

Hai con bảo bố:

- Cha ơi, chúng con muốn lên ngựa vàng đi giang hồ bốn bể một phen.

Bác trai bối rối đáp:

- Để các con đi mà rồi đây cha không biết được các con ra sao thì cha đành lòng sao được?

Hai con nói:

- Hai cây huệ vàng vẫn còn đây, cha cứ xem hoa khắc biết chúng con thế nào. Hoa cứ tươi là chúng con vẫn khỏe, hoa héo là chúng con đang ốm, hoa rụng đi là chúng con đã chết.

Hai con lên ngựa ra đi. Tới một quán trọ kia, bên trong rất đông khách, mọi người thấy hai đứa trẻ bằng vàng đi vào cứ khúc khích cười và lên tiếng đùa cợt. Một chú nghe thấy người ta chế nhạo, phát ngượng không muốn đi nữa, mới quay về nhà với bố. Còn chú kia vẫn cưỡi ngựa đi, đi tới một khu rừng lớn, chú vừa định giục ngựa vài rừng thì có người bảo:

- Không được đâu, không thể đi qua được đâu, trong đó toàn bọn cướp của giết người, tất chúng sẽ sinh chuyện. Nhất là khi chúng lại thấy chú và ngựa của chú toàn bằng vàng, chúng sẽ giết chú mất.

Song chú bé không sợ, chú bảo:

- Nhất định tôi phải đi và sẽ đi được.

Chú lấy da gấu, phủ lên mình và phủ cho ngựa để không ai thấy đó là vàng nữa, rồi ung dung giục ngựa phi nước kiệu vào rừng. Mới đi được một quãng thì thấy có tiếng xì xào trong bụi. Chú nghe rõ tiếng người gọi nhau. Phía này gọi:

- Có một đứa vào đấy.

Phía kia đáp:

- Cho nó đi. Cái đồ vô dụng ấy, kiết xác mà trần trụi như một con chuột trong xó nhà thờ, được việc gì!

Thế là chú bé vàng may mắn lọt qua được khu rừng, bình yên vô sự.

Một hôm khác, chú tới một làng kia. Chú gặp một cô thiếu nữ xinh đẹp quá, tưởng chừng như ở trên đời này không thể còn ai xinh đẹp hơn. Chú thấy yêu cô nàng vô cùng, mới lại gần hỏi:

- Ta rất yêu nàng, yêu tha thiết, nàng có ưng lấy ta không?

Người thiếu nữ nhìn chú cũng thấy ưng ý nên bằng lòng ngay và bảo:

- Vâng, thiếp xin theo lời chàng, thiếp nguyện suốt đời sẽ chung thủy với chàng.

Hai người làm lễ cưới. Đang giữa cuộc vui, bỗng bố cô dâu về. Thấy lễ cưới con gái, bác ta ngạc nhiên lắm, hỏi:

- Thế chú rể đâu?

Mọi người chỉ chú bé vàng, lúc này vẫn còn đang khoác tấm da gấu. Người bố nổi giận, quát:

- Không đời nào ta chịu gả con cho những quân vô dụng.

Bác ta muốn giết chú rể vàng. Cô dâu vội ra sức van xin và nói:

- Dù sao thì chàng cũng đã là chồng con rồi, con rất thương chàng.

Sau rồi người bố cũng xiêu lòng, nhưng trong dạ vẫn chưa được yên. Sáng hôm sau bác trở dậy thật sớm muốn xem kỹ con rể, có đúng chỉ là một tên ăn mày tầm thường rách rưới không. Song người nằm trong giường lại là một chàng trai rất đẹp, toàn bằng vàng, tấm da gấu vất bỏ dưới đất. Bác quay trở ra, nghĩ bụng: "Tốt quá, may mà mình kìm được cơn nóng, bằng không đã phạm sai lầm lớn".

Trong lúc đó thì chàng người vàng đang mơ màng, thấy mình săn trượt theo một con hươu rất đẹp. Lát sau tỉnh giấc, chàng bảo vợ:

- Ta muốn đi săn một bữa.

Người vợ thấy lo, nài chồng ở nhà. Nàng bảo:

- Chỉ sợ sẽ xảy ra vạ lớn cho chàng.

Nhưng chàng gạt đi:

- Ta phải đi và nhất định đi được.

Nói xong chàng đứng lên đi luôn vào rừng. Đi mới được một lát đã thấy một con hươu ngạo nghễ đứng chắn ngang đường, đúng như trong giấc mơ. Chàng vừa giơ súng toan bắn thì hươu đã nhảy vọt đi mất. Chàng liền rượt theo, băng qua hố qua bụi, suốt ngày
hôm đó mà không thấy mệt. Đến chiều thì con hươu biến đi đâu mất. Chàng người vàng nhìn quanh quất thấy phía trước có một ngôi nhà nhỏ. Trong nhà có một mụ phù thủy đang ngồi. Chàng gõ cửa. Mụ già bước ra cất tiếng hỏi:

- Ngày đã muộn thế này mà ngươi còn quanh quẩn làm chi trong rừng?

Chàng hỏi lại:

- Bà có thấy con hươu nào chạy qua không?

- Có, - mụ đáp - Con hươu ấy ta biết rõ lắm.

Vừa lúc ấy, một con chó nhỏ theo mụ từ trong nhà ra cứ hướng vào chàng trai mà sủa ầm ĩ. Chàng mắng nó:

- Có câm không, đồ khốn. Ta lại cho mi một phát chết tươi bây giờ.

Mụ phù thủy nổi nóng hét lên:

- Sao, mi muốn giết chó của ta à?

Mụ phù thủy biến luôn chàng trai thành đá nằm lì tại đó. Vợ ở nhà đợi mãi không thấy chồng về, nghĩ bụng: "Chắc đã xảy ra chuyện gì rồi". Nàng lo buồn hết sức. Trong lúc đó, ở nhà người em đang đứng bên hai cây huệ vàng bỗng thấy một bông gục xuống. Chàng kêu lên:

- Trời ơi, anh con gặp vạ lớn rồi, phải đi ngay, may ra còn cứu được.

Người cha gạt đi:

- Ở nhà thôi, mất nốt con thì bố biết làm sao?

Nhưng người con vẫn kiên quyết:

- Con phải đi và nhất định đi.

Chàng bèn cưỡi lên con ngựa vàng, phóng ngựa phi thẳng đến khu rừng lớn, chỗ anh chàng đã bị hóa đá. Mụ phù thủy già ở trong nhà chạy ra, gọi chàng và có ý định bắt nốt chàng, song chàng không lại gần mà chỉ gọi với lại:

- Nếu như mi không làm cho anh ta sống lại thì ta sẽ bắn chết mi.

Mụ phù thủy buộc lòng phải đặt ngón tay lên tảng đá, tức thì tảng đá lại hóa thành người. Hai người con vàng gặp lại nhau, vui mừng khôn xiết, ôm hôn nhau rồi cùng lên ngựa ra khỏi rừng. Một người về nhà vợ, còn người kia về nhà cha mẹ. Người cha bảo:

- Cha cũng biết là con đã cứu được anh con rồi, vì cha thấy bông huệ vàng kia lại đứng thẳng và tươi như cũ.

Họ sống rất hạnh phúc đến trọn đời



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:40  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Nàng Bạch Tuyết


Grim





Giữa mùa đông tháng giá, tuyết rơi xuống trắng như bông.Một bà hoàng hậu ngồi khâu bên cửa sổ khung gỗ mun, bà mải nhìn tuyết nên kim đâm phải tay, ba giọt máu rơi xuống tuyết. Thấy máu đỏ pha lẫn tuyết trắng thành một màu tuyệt đẹp, bà nghĩ bụng: "Ước gì ta đẻ được một người con gái, da trắng như tuyết, môi đỏ như máu và tóc đen như gỗ khung cửa này". Sau đó ít lâu, bà đẻ một cô gái trắng da như tuyết, môi đỏ như máu và tóc đen như mun; vì vậy bà đặt tên con là Bạch Tuyết. Bạch Tuyết vừa ra đời thì mẹ chết.
Một năm sau, vua lấy vợ khác. Bà này đẹp lắm nhưng kiêu căng tự phụ, không muốn ai đẹp bằng mình. Bà có một cái gương thần, khi soi, bà hỏi:
Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?
Thì gương đáp:
- Tâu hoàng hậu, hoàng hậu đẹp nhất nước ạ.
Biết gương nói thật, bà rất sung sướng. Nhưng Bạch Tuyết càng lớn càng đẹp. Năm lên bảy, cô đẹp như tiên sa, đẹp hơn cả hoàng hậu.
Một hôm hoàng hậu lại hỏi gương:
Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?
Thì gương đáp:
Xưa kia bà đẹp nhất trần,
Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.
Hoàng hậu nghe nói giật mình, ghen tức tái mặt đi. Từ đó mỗi khi thấy Bạch Tuyết, hoàng hậu lại tức điên lên. Ngày một thêm kiêu ngạo và đố kỵ, bà lúc nào cũng bứt rứt. Bà cho
gọi một người đi săn đến bảo:
- Ngươi hãy đem con bé này vào rừng cho khuất mắt ta. Giết chết nó đi, mang tim gan nó về đây làm bằng.
Người đi săn vâng lệnh, đem cô bé đi. Khi bác lấy dao ra để chọc tiết thì cô bé vô tội van khóc:
- Bác ơi, bác đừng giết cháu, cháu xin ở lại trong rừng không về
nhà nữa.
Bác thấy cô bé xinh đẹp quá, thương hại bảo:
- Tội nghiệp, thôi cháu đi đi. Bác nghĩ bụng: "Rồi thú dữ cũng đến ăn thịt nó mất". Nhưng bác thấy hình như cất được một gánh nặng trong lòng vì không phải giết người.
Lúc đó một con hoẵng nhỏ nhảy tới. Bác giết con hoẵng, lấy tim
gan đem về nộp cho hoàng hậu, nói dối là tim gan Bạch Tuyết.
Người đàn bà độc ác đó sai đầu bếp xào xáo cho mụ ăn. Mụ đinh
ninh đó là tim gan Bạch Tuyết, ăn kỳ hết.
Một mình thui thủi trong rừng rộng. Bạch Tuyết sợ hãi, nhìn lá cây ngọn cỏ, chẳng biết làm gì. Cô cắm đầu chạy, giẫm phải gai và đá nhọn, chảy cả máu chân. Thú dữ lượn quanh cô, nhưng không đụng chạm đến cô. Cô đi mỏi cả chân, chập tối, thấy một cái nhà
nhỏ, liền vào để nghỉ.
Trong nhà, cái gì cũng bé tí ti, nhưng đẹp và sạch lắm. Trên bàn trải khăn trắng tinh có bảy cái đĩa con, một đĩa có một cái thìa con, một cốc con. Sát tường kê bảy chiếc giường nhỏ phủ khăn trắng như tuyết.
Bạch Tuyết đang đói và khát, liền ăn ở mỗi đĩa một tí rau, tí bánh, và uống ở mỗi cốc một hớp rượu vang, vì cô không muốn ai phải mất phần. Cô mệt quá, muốn đi ngủ, nhưng không giường nào nằm vừa, cái thì dài quá, cái lại ngắn quá. Cô thử đên cái thứ bảy
mới thấy vừa, liền vào đó ngủ.
Tối mịt, các người chủ căn nhà mới về: đó là bảy chú lùn làm công việc đào mỏ. Họ thắp bảy ngọn nên lên. Họ cảm thấy có ai đã đến nhà vì thấy khác khác.
Một chú nói: "Ai đã ngồi vào ghế của tôi?". Chú thứ hai nói: "Ai
đã ăn ở đĩa của tôi?". Chú thứ ba nói: "Ai đã ăn ít bánh của tôi?".
Chú thứ tư nói: "Ai đã ăn ít rau của tôi?". Chú thứ năm nói: "Ai đã
dùng chiếc dĩa của tôi?". Chú thứ sáu nói: "Ai đã dùng dao của tôi?".
Chú thứ bảy nói: "Ai đã uống vào cốc của tôi?".
Một chú nhìn quanh, rồi đi lại giường mình. Thấy có chỗ trũng
ở đệm, chú bèn nói:
- Ai đã trèo lên giường tôi?
Những chú khác cũng lại giường mình và nói: "Có ai đã nằm vào giường của tôi?". Chú thứ bảy nhìn vào giường mình thấy Bạch Tuyết đang ngủ. Chú gọi các chú kia đến. Ai nấy đều ngạc nhiên. Họ cầm bảy ngọn đèn soi Bạch Tuyết và reo lên: "Lạy chúa! Cô bé
này đẹp quá". Các chú mừng lắm, để yên cho cô ngủ. Suốt đêm, chú lùn thứ bảy nằm ghé nhờ sáu chú kia, mỗi giường một lúc.
Sáng hôm sau, Bạch Tuyết dậy, thấy bảy chú lùn, cô hoảng sợ,
nhưng họ thân mật hỏi:
- Cô tên là gì?
Cô đáp:
- Em là Bạch Tuyết.
Họ lại hỏi:
- Sao cô lại tới đây?
Cô kể cho họ nghe là gì ghẻ muốn giết cô, người đi săn đã để cho cô sống, cô đã chạy suốt ngày mãi cho đến khi thấy nhà họ.
Các chú lùn bảo cô:
- Cô có muốn giúp chúng tôi một tay, làm các việc trong nhà này không? Cô sẽ nấu nướng, làm giường, giặt giũ, khâu vá, thêu thùa, cô quét tước, dọn dẹp tốt, thì ở lại đây với chúng tôi, cô sẽ chẳng thiếu thứ gì.
Bạch Tuyết nói:
- Vâng em xin đa tạ.
Từ đó Bạch Tuyết ở với các chú lùn. Cô làm công việc nội trợ. Sáng sớm, các chú lùn vào mỏ lấy quặng và vàng cho đến chiều tối, Bạch Tuyết làm thức ăn sẵn để cho họ về ăn. Suốt ngày, cô ở nhà một mình. Các chú lùn dặn cô:
- Cẩn thận đề phòng mụ gì ghẻ đấy! Thế nào rồi mụ cũng biết là cô ở đây. Đừng cho ai vào nhà đấy!
Hoàng hậu đinh ninh là ăn tim gan Bạch Tuyết rồi mụ chắc rằng từ nay mình đẹp nhất đời.
Bà lại gương hỏi:
Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?
Gương đáp:
Xưa kia bà đẹp nhất trần,
Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.
Nàng ở khuất núi non,
Tại nhà của bảy chú lùn xa xa.
Bà giật mình vì biết rằng gương không bao giờ nói sai, người đi săn đã lừa bà và Bạch Tuyết còn sống. Bà lại nghĩ cách hại Bạch Tuyết. Bà đứng ngồi không yên vì thấy mình chưa đẹp nhất nước. Sau bà tìm ra một kế: bà bôi mặt và ăn mặc giả làm một bà lão
bán hàng xén, không ai nhận ra được. Bà cải trang rồi vượt bảy ngọn núi đến nhà bảy chú lùn kia, gõ cửa nói:
- Lão có hàng đẹp bán đây.
Bạch Tuyết nhìn qua cửa sổ nói:
- Chào bà, bà bán gì đấy?
- Toàn là của đẹp, dây buộc, áo lót đủ các màu.
Rồi mụ cho cô xem một chiếc ao lót chẽn bằng xa-tanh ngũ sắc.
Bạch Tuyết nghĩ: "Bà này tử tế, mình cho vào được". Cô bèn mở cửa
cho mụ vào và mua chiếc áo lót.
Mụ bảo cô:
- Con ơi, con buộc vụng lắm, lại đây, bà buộc cho.
Bạch Tuyết không chút e ngại, để mụ buộc hộ. Mụ buộc thoăn thoắt, thít chặt quá, Bạch Tuyết không thở được nữa, ngã lăn ra bất tỉnh nhân sự.
Mụ nói:
- Thế là hết đời con đẹp nhất.
Rồi mụ vội vã ra về.
Tối đến bảy chú lùn về nhà, thấy Bạch Tuyết nằm xoài trên mặt đất, không động đậy thì hoảng sợ lắm. Họ nhấc cô lên, thấy áo lót buộc chặt quá, bèn cắt đôi ra. Cô lại khe khẽ thở, rồi dần dần sống lại. Sau khi nghe cô kể chuyện vừa xảy ra, các chú lùn bảo cô:
- Con mụ bán hàng đúng là mụ hoàng hậu độc ác. Từ rày cô phải cẩn thận, chúng tôi vắng nhà thì chớ có cho ai vào nhé.
Về tới nhà, mụ dì ghẻ đến trước gương và hỏi:
Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?
Gương đáp:
Xưa kia bà đẹp nhất trần,
Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.
Nàng ở khuất núi non,
Tại nhà của bảy chú lùn xa xa.
Nghe nói vậy, hoàng hậu cảm thấy máu sôi lên vì căm giận, mụ biết là Bạch Tuyết đã được cứu sống lại. Mụ nói: "Được rồi, thế nào tao cũng lập mưu trừ được mày". Rồi mụ phù phép làm một cái lược có thuốc độc và mặc giả làm một bà lão khác lần trước.
Mụ vượt bảy ngọn núi đi đến nhà bảy chú lùn, gỗ cửa và nói:
- Bà có hàng đẹp bán đấy.
Bạch Tuyết ngó qua cửa sổ, nói to:
- Bà đi đi, tôi không được phép cho ai vào đâu.
Mụ già nói:
- Thì ai cấm con xem cơ chứ?
Rồi nó giơ cho Bạch Tuyết xem cái lược có thuốc độc. Cô thích cái lược quá, xiêu lòng chạy ra mở cửa. Đôi bên thỏa thuận mua bán xong, mụ già nói:
- Để bà chải cho đẹp nhé.
Bạch Tuyết chẳng ngần ngại gì, để cho mụ chải đầu. Lược mới đụng vào tóc, Bạch Tuyết đã bị độc, ngã lăn ra bất tỉnh nhân sự.
Con mụ gian ác nói:
- Thế là cái đẹp tuyệt vời đã đi đời nhà ma.
Rồi mụ bỏ đi.
May sao bấy giờ đã muộn. Chẳng mấy chốc, bảy chú lùn về. Thấy Bạch Tuyết nằm chết cứng dưới đất, họ nghi ngay thủ phạm là mụ dì ghẻ. Họ tìm thấy cái lược trên đầu Bạch Tuyết. Vừa gỡ lược ra thì Bạch Tuyết sống lại ngay, kể lại sự việc cho các chú
nghe. Các chú dặn cô phải cẩn thận. Bất cứ ai đến cũng đừng mở
cửa cho vào.
Hoàng hậu về nhà soi gương hỏi:
Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?
Gương vẫn trả lời như trước:
Xưa kia bà đẹp nhất trần,
Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.
Nàng ở khuất núi non,
Tại nhà của bảy chú lùn xa xa.
Nghe thấy thế, hoàng hậu tức điên lên, nói:
- Con Bạch Tuyết, mày phải chết, dù tao có mất mạng cũng
cam.
Mụ vào một cái phòng rất kín trong lâu đài, nơi không ai được bước chân tới. Mụ tẩm thuốc độc vào một quả táo. Quả táo trông rất ngon, nửa đỏ nửa trắng, ai thấy cũng muốn ăn, nhưng cắn một miếng là chết tươi. Sau khi đã chuẩn bị quả táo, mụ bôi mặt, ăn mặc giả làm một bà nông dân, vượt bảy ngọn núi đến nhà bảy chú lùn. Mụ gỗ cửa.
Bạch Tuyết thò đầu qua cửa sổ, nói:
- Tôi không được phép cho ai vào đâu. Bảy chú lùn đã cấm rồi.
Mụ nông dân kia bảo:
- Thôi cũng được. Tôi muốn đẩy chỗ táo này đi. Để tôi cho cô
một quả.
Bạch Tuyết nói:
- Không, cháu không được phép lấy gì đâu.
Mụ già nói:
- Cô sợ ăn phải thuốc độc ư? Trông đây này, tôi bổ quả táo ra
làm đôi, cô ăn nửa đỏ đẹp, tôi ăn nửa trắng nhé.
Mụ già bỏ thuốc độc vào quả táo rất khéo, chỉ nửa đỏ có thuốc độc thôi. Bạch Tuyết thèm ăn quả táo quá, thấy mụ ăn táo mà không sao cả, cô bèn cầm lấy phần mụ đưa. Cô vừa cắn một miếng thì ngã lăn ra chết. Mụ gườm gườm nhìn cô, cười khanh khách, nói:
- Trắng như tuyết, đỏ như máu, đen như mun, lần này những thằng lùn hết đường cứu sống mày.
Khi về đến cung hoàng hậu hỏi :
Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?
Gương đáp:
- Tâu hoàng hậu, hoàng hậu đẹp nhất nước ạ.
Lúc đó, lòng mụ mới được thư thái, sự thư thái của kẻ đố kỵ.
Những chú lùn về nhà thấy Bạch Tuyết đã tắt thở nằm dài trên mặt đất. Họ nâng cô dậy, tìm xem có dấu vết chất độc nào không. Họ nới áo cho cô, chải đầu cho cô, lấy nước và rượu tắm rửa cho cô, nhưng chẳng ăn thua gì, cô chết thật rồi. Họ đặt cô lên giường. Cả
bảy người ngồi quanh thi hài than khóc ròng rã ba ngày. Họ muốn chôn cô, nhưng thấy sắc mặt cô tươi, má cô ửng hồng như người sống, thì nói: "Ai nỡ vùi cô xuống đất đen". Họ đặt xác cô vào một cỗ quan tài bằng thủy tinh, trông rõ mồn một, và khắc tên cô bằng chữ
vàng, đề rõ cô là một nàng công chúa. Rồi họ đem quan tài lên núi, cắt phiên nhau canh gác. Đến cả loài vật cũng đến viếng Bạch Tuyết, trước hết là cú, rồi đến quạ, sau cùng là một con chim bồ câu.
Xác Bạch Tuyết để trong quan tài đã lâu mà sắc mặt vẫn tươi như ngủ, da vẫn trắng như tuyết, môi vẫn đỏ như máu, tóc đen như gỗ mun.
Một hôm, có Hoàng tử đi rừng về muộn, tới nhà các chú lùn xin ngủ nhờ. Hoàng tử trông thấy trên núi có chiếc quan tài trong có Bạch Tuyết, ngoài đề chữ vàng. Hoàng tử liền bảo các chú lùn:
- Các chú để cho ta cái quan tài kia, muốn lấy bao nhiêu ta
cũng trả.
- Hoàng tử có trả chúng tôi một núi vàng, một biển bạc chúng tôi cũng không bán.
Hoàng tử nói:
- Thế thì các chú biếu ta vậy, vì ta mà không được trông thấy Bạch Tuyết thì ta không thể sống được. Ta sẽ yêu nàng và chăm sóc nàng, coi nàng là người yêu của ta.
Nghe Hoàng tử nói thế, các chú lùn tốt bụng động lòng thương và bằng lòng cho. Hoàng tử sai thị vệ khiêng quan tài đi. Người khiêng vấp phải rễ cây, làm nẩy người Bạch Tuyết lên. Bạch Tuyết nôn miếng táo có thuốc độc ra.
Tức thì nàng sống lại, mở mắt, nâng nắp quan tài lên, ngồi nhỏm dậy, kêu lên:
- Trời ơi, đây là đâu?
Hoàng tử mừng rỡ nói:
- Nàng ở đây với ta.
Rồi Hoàng tử kể cho Bạch Tuyết nghe đầu đuôi câu chuyện.
Hoàng tử nói tiếp:
- Ta yêu nàng nhất đời. Nàng hãy về cung điện vua cha với ta,
nàng sẽ làm vợ ta.
Bạch Tuyết vui vẻ theo gót Hoàng tử về cung. Lễ cưới được cử hành rất long trọng.
Mụ dì ghẻ gian ác cũng được mới đến dự tiệc. Mụ ăn mặc lộng lẫy, đến gương soi và hỏi:
Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?
Gương đáp:
Tâu bà, bà đẹp tuyệt trần,
Nhưng bà hoàng mới muôn phần đẹp hơn.
Mụ gian ác chửi đổng một câu, sợ run lên. Mới đầu mụ toan không đi ăn cưới, nhưng mụ đứng ngồi không yên, sốt ruột đi xem mặt cô dâu.
Mụ bước vào và nhận ra ngay Bạch Tuyết, sợ quá đứng thần người ra, không nhúc nhíc được, rồi quả tim độc ác của mụ vỡ tan, mụ lăn ra chết.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:42  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Chú bé tí hon


Grim





Xưa có một bác nông dân nghèo. Buổi tối, bác thường ngồi bên bếp lửa, nói với bác gái đang xe chỉ:

- Vợ chồng mình hiếm hoi thật là buồn. Nhà mình tẻ ngắt, còn các nhà láng giềng thì thật là vui vẻ nhộn nhịp.

Bác gái thở dài đáp:

- Giá như được một đứa con dù bé bằng ngón tay cái, tôi cũng thỏa lòng, chắc vợ chồng mình sẽ yêu quí nó lắm nhỉ.

Được ít lâu, người vợ thụ thai và bảy tháng sau sinh được một thằng bé đầy đủ mặt mũi chân tay, nhưng chỉ vừa bằng ngón tay cái.

Hai vợ chồng nói:

- Thật đúng như lời ước nguyện. Vợ chồng mình sẽ yêu quí nó lắm nhỉ.

Vì nó bé bằng ngón tay cái nên họ đặt tên nó là Tý hon. Tuy hai vợ chồng cho con ăn uống đầy đủ, con vẫn không nhỉnh lên một chút nào cả, cứ nguyên như lúc đẻ ra. Được cái mắt nó sáng, có vẻ thông minh. Chẳng bao lâu nó đã khôn ngoan khéo léo, làm gì cũng được.

Một hôm người bố sửa soạn vào rừng đẵn củi, miệng lẩm bẩm: "Giá ta có người đánh xe hộ có thích không". Tý hon bèn thưa rằng:

- Bố ạ, con đánh xe được, bố cứ tin ở con, thế nào xe cũng đến rừng đúng lúc.

Bố cười nói:

- Con đánh xe thế nào được! Con bé quá, không cầm nổi cương đâu.

- Không sao bố ạ. Nếu mẹ con thắng ngựa vào cho con, con sẽ ngồi vào tai nó. Con thét một tiếng là nhất định nó phải đi.

Bố nói:

- Được, để thử xem.

Mẹ thắng ngựa và đặt Tý hon vào tai ngựa. Nó thét "Tắc, tắc" cho ngựa chạy. Thế là ngựa chạy như có người đánh xe thật, và xe cứ lên đường chạy vào rừng. Khi xe rẽ ở một chỗ ngoặt, Tý hon thét: "Tắc, tắc" thì có hai người lạ mặt chạy đến.

Một người nói:

- Trời ơi, không thấy người đánh xe mà xe cứ đi, lại nghe thấy tiếng người đánh xe. Quái lạ nhỉ!

Người kia cũng nói:

- Ừ, cũng lạ thật, ta thử đi theo xem xe ở chỗ nào.

Xe chạy thẳng một mạch vào rừng rồi dừng lại đúng chỗ có củi đã đẵn. Tý hon thấy bố gọi:

- Bố ơi, bố thấy chưa, con đã đưa xe đến đây, bố cho con xuống đi.

Bố chạy đến, tay trái nắm cương ngựa, tay phải nhấc con ra khỏi tai ngựa, rồi đặt con xuống. Tý hon vui vẻ ngồi lên một cọng rơm. Trông thấy Tý hon hai người lạ mặt sửng sốt không nói lên lời. Một người kéo bạn ra một chỗ bảo:

- Này, nếu ta đem thằng nhóc này đi làm trò ở tỉnh to thì phát tài đấy. Ta mua nó đi.

Hai người bèn đến bảo bác nông dân:

- Ông bán cho chúng tôi thằng bé này, chúng tôi sẽ chăm sóc nó cẩn thận.

Người bố đáp:

- Không, nó là khúc ruột cắt đôi của tôi. Bạc vàng trên cả thế gian này đối với tôi cũng không bằng được.

Nghe thấy hai người hỏi mua, Tý hon níu lấy quần áo bố trèo lên vai nói thầm:

- Bố ơi, bố cứ bán con đi, thế nào rồi con cũng về được.

Ông bố liền bán con lấy một số tiền to.

Hai người kia hỏi Tý hon:

- Mày muốn ngồi đâu?

- Khó gì đâu, cứ để cháu lên vành mũ, cháu sẽ đi đi lại lại trên ấy xem phong cảnh, cháu không ngã đâu mà ngại.

Một người đặt nó lên vành mũ.

Sau khi Tý hon đã chào bố, họ đem nó đi, đi mãi. Đến xâm xẩm tối, Tý hon nói:

- Cho cháu xuống đất một lát, cháu cần lắm.

Người mang nó trên mũ nói:

- Cứ việc ở trên ấy, không có gì phiền bác đâu, chim thỉnh thoảng vẫn ỉa trên ấy mà!
Nó nói:

- Không mà, cháu cũng biết cư xử thế nào cho phải, ông cho cháu xuống mau mau đi.

Người ấy cất mũ, nhắc Tý hon xuống ruộng gần vệ đường. Nó lẩn ngay vào giữa những cục đất, rúc vào một cái hang chuột. Rồi nó lên tiếng chế hai người kia:

- Thôi chào hai ông, hai ông về với nhau nhé.

Hai người lấy gậy chọc vào hang chuột để bắt nó, nhưng mất công toi vì Tý hon bò vào sâu quá. Trời đã tối hẳn, hai người đành bỏ về tay không. Khi họ đi rồi, Tý hon chui ở hang ra. Nó nghĩ bụng: "Đêm tối mà cứ chuệnh choạng ngoài đồng thì nguy, vỡ đầu gãy cẳng như chơi". May sao nó vấp phải một cái vỏ sên. Nó chui vào nói:

- Lạy chúa, đêm nay con có chỗ ngủ yên rồi.

Vừa chợp mắt, thì nó nghe thấy tiếng hai người đi qua. Một người nói:

- Làm thế nào mà ăn trộm được vàng bạc của lão cha xứ giàu sụ nhỉ?

Tý hon nói xen vào:

- Để tôi bày mưu cho.

Một tên trộm hốt hoảng nói:

- Cái gì thế? Tao vừa nghe thấy tiếng người nói!

- Các bác cứ đi theo, tôi sẽ giúp cho.

- Nhưng mày ở chỗ nào cơ?

- Các ông cứ tìm tôi ở dưới đất, chỗ nào có tiếng nói ấy.

Bọn kẻ trộm tìm mãi mới thấy Tý hon. Chúng nhấc nó lên hỏi:

- Mày liệu giúp chúng tao được việc gì hở nhãi?

- Cháu sẽ luồn qua chấn song cửa sổ nhà cha xứ. Các bác muốn lấy gì cháu chuyền ra cho chứ gì.

- Được. Để xem tài mày ra sao.

Khi kẻ trộm đến nhà cha xứ, Tý hon chui vào buồng, rồi thản nhiên hỏi rõ to:

- Các bác có muốn khoắng sạch cái buồng này không?

Bọn kẻ trộm sợ hãi bảo nó:

- Nói khẽ chứ, người ta thức dậy bây giờ!

Nhưng Tý hon vẫn tảng lờ như không nghe tiếng lại hỏi to:

- Các bác muốn lấy gì, khoắng sạch nhé?

Bà cụ làm bếp ngủ ở buồng bên cạnh nghe thấy ngồi nhỏm dậy, lắng tai nghe. Bọn kẻ trộm hốt hoảng toan lẩn ra nhưng lại trấn tĩnh, cho là Tý hon trêu mình thôi. Chúng trở lại khẽ bảo:

- Thôi nào đừng đùa nữa. Có gì thì chuyển ra đi nào!

Tý hon lại kêu thật to:

- Cháu chuyển tất cả nhé, giơ tay ra mà đón lấy.

Lần này bà già nghe thấy rõ mồn một, bước xuống giường lò mò ra cửa. Kẻ trộm vội chạy bán sống bán chết như có ma đuổi. Bà già không thấy gì, đi thắp nến. Khi bà trở lại, Tý hon đã trốn vào đống cỏ. Bà lục soát mọi chỗ không thấy gì, tưởng là mình mê ngủ, lại lên
giường nằm. Tý hon nằm co ro trong đám cỏ khô, định ngủ đến sáng mai rồi về nhà. Nhưng định thế này lại ra thế khác. Chà, ở đời thật lắm nỗi gian nan! Trời vừa tàng tảng sáng, bà già đã dậy cho súc vật ăn. Trước tiên bà vào kho, lấy một ôm cỏ, đúng ngay chỗ Tý hon ngủ. Tý hon ngủ say quá, nên mãi đến khi vào mồm bò rồi mới thức giấc. Nó kêu lên:

- Trời ơi tôi đã ở trong cối bác nện dạ rồi.

Nhưng sau đó biết ngay là mồm bò rồi. Nó cố tránh cho khỏi bị nghiến, thì bị nuốt trôi vào dạ dày. Nó nghĩ bụng: "Gian nhà này không có cửa sổ, chẳng thấy mắt trời, đèn đóm gì cả!". Ở đây nó thấy khó chịu lắm, khổ nhất là cỏ cứ tuôn vào, chỗ ở ngày càng thêm chật hẹp. Nó sợ quá kêu to:

- Đừng tuôn cỏ tươi vào nữa! Đừng tuôn cỏ tươi vào nữa!

Lúc đó, bà già đang vắt sữa bò, không trông thấy người mà lại nghe thấy tiếng nói y như tiếng đêm qua. Bà sợ quá, đang ngồi ghế, ngã lăn ra đổ hết sữa. Bà vội đi tìm cha xứ mách:

- Quái lạ, bò nhà biết nói cha ạ.

Cha xứ hỏi:

- Bà điên à?

Rồi cha xuống chuồng bò xem thực hư thế nào.

Cha mới bước vào, đã nghe thấy tiếng Tý hon kêu to:

- Đừng tuồn cỏ tươi vào nữa!

Cha xứ cũng đâm hoảng. Cho là bò bị quỷ ám. Cha sai giết bò. Người ta làm thịt bò xong quẳng ra đống phân cái dạ dày có chứa Tý hon. Nó loay hoay mãi mới thò được đầu ra, lại gặp ngay sự chẳng lành: một con chó sói đói bụng qua đấy, nuốt chửng cả dạ dày lẫn nó. Tý hon vẫn yên trí nghĩ bụng:

- "Có lẽ sói này bảo được".

Rồi từ trong bụng sói nó nói to:

- Cậu sói ơi, tôi muốn mách cậu một miếng ăn tuyệt ngon.

Sói hỏi:

- Ở đâu thế?

Tý hon bảo cho sói biết nhà bố mình ở đâu và nói:

- Cậu cứ chui qua cống vào bếp thì cậu sẽ tha hồ chén bánh ngọt, mỡ, xúc xích, đủ thứ.
Sói không đợi Tý hon phải nói hai lần. Đêm đến, sói vội chui qua cống vào bếp chén thả cửa. Sói ăn no phình bụng rồi, muốn ra không được, vì qua đường cũ không lọt nữa. Tý hon đã tính trước đến mức đó. Thế là ở trong bụng sói, Tý hon kêu la inh ỏi lên. Sói
nói:

- Mày có im đi không người ta thức dậy bây giờ.

Tý hon đáp:

- Úi chà, cậu đã chém thích rồi, tôi cũng phải tiêu khiển chứ.

Nói xong nó lại hét ầm lên.

Bố mẹ nó nghe tiếng, thức dậy chạy xuống bếp ngó qua keo vách thì thấy sói. Ông chạy đi lấy rìu, bà lấy hái. Lúc vào chồng bảo vợ:

- Bà đứng sau tôi, nếu tôi choảng một cái mà nó chưa chết ngay, thì bà đâm vào bụng nó nhé.

Tý hon nghe thấy tiếng bố, reo lên:

- Bố ơi, con ở trong bụng sói đấy.

Bố mừng quýnh nói:

- Lạy chúa! Đứa con vàng bạc của tôi đã về đây rồi.

Rồi bác bảo vợ vứt hái đi để con khỏi bị thương. Đoạn ông giơ rìu lên, giáng cho sói một nhát chết tươi. Sau bác lấy dao kéo mổ bụng sói, lôi Tý hon ra.

Bác nói:

- Ở nhà bố mẹ lo cho con quá con ạ.

- Thưa bố, con đã đi đây đi đó nhiều, may mà nay con lại được thở không khí trong lành.

- Thế con đã đi những đâu?

- Bố ạ, con đã ở trong hang chuột, trong dạ dày bò, trong bụng sói, bây giờ con muốn ở nhà với bố mẹ.

Bố mẹ ôm hôn con mà rằng:

- Từ nay dù được bao nhiêu tiền, bố mẹ chẳng bán con nữa đâu.

Rồi bố mẹ cho con ăn uống và may quần áo mới cho nó, vì quần áo cũ đi nhiều đã rách hết.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:43  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Con mèo đi hia




Grim




Một bác thợ xay có ba con trai, một nhà xay lúa, một con lừa và một con mèo. Các con trai xay bột, lừa đi lấy lúa về và chở bột đi, mèo thì bắt chuột. Khi bác chết, ba con chia nhau gia tài: con cả được cái nhà xay lúa, con thứ hai được con lừa, con thứ ba không còn gì khác đành lấy con mèo vậy. Anh này buồn bã, nói một mình:

- Mình xí được phần tồi quá! Anh cả mình có thể xay bột, anh hai mình còn được cưỡi lừa, mình thì làm ăn gì được với con mèo! Bất quá lột da nó làm được đôi bao tay là hết.

Mèo nghe hiểu hết, liền nói:

- Cậu ơi, cậu giết tôi lấy da làm đôi bao tay khổ làm gì? Cậu cứ bảo làm cho tôi một đôi hia để tôi ra ngoài cho nó đường hoàng thì rồi chả mấy lúc tôi sẽ làm cho cậu mở mày mở mặt.

Người con bác thợ xay thấy mèo nói vậy rất ngạc nhiên. Nhân có người thợ giày đi qua, anh gọi vào bảo đo chân mèo làm cho nó một đôi hia. Hia làm xong, mèo đi vào, lấy một cái bị, đổ đầy thóc xuống đáy, buộc miệng bị, rồi quẩy bị lên vai. Đoạn mèo bước ra cửa
đi hai chân như người. Lúc đó trong nước có một ông vua thích ăn chim đa đa. Nhưng
tiếc thay không ai bắt được con nào. Rừng thì đầy chim đa đa, nhưng chim nhát quá, không người đi săn nào tới gần được. Mèo biết chuyện ấy, bèn nghĩ cách làm ăn cho khá hơn. Nó vào rừng mở bị, tãi thóc ra, để dây xuống cỏ, rồi luồn dây vào sau một bụi rậm.
Nó cũng lẩn quất quanh ở đó để rình. Được một lát, chim đa đa bay đến, thấy thóc liền theo nhau nhảy vào bị. Khi được một số kha khá, mèo giật dây bắt được một số con chim.
Rồi nó quẩy bị lên vai đi thẳng đến cung vua.

Lính canh hô:

- Đứng lại! Đi đâu?

Mèo đáp gọn:

- Ta vào gặp nhà vua!

- Mày điên à? Mèo mà dám vào gặp nhà vua!

Một tên lính khác bảo:

- Thôi cứ để nó đi. Nhà vua thường hay buồn phiền biết đâu mèo gừ gừ lại chẳng làm cho hoàng thượng khuây khỏa.

Mèo đến yết kiến nhà vua, cúi chào rồi tâu:

- Tâu bệ hạ, chủ tôi là bá tước...- mèo bịa ra một cái tên quí phái thật dài - xin trân trọng gửi lời chào hoàng thượng và xin kính dâng hoàng thượng một ít chim đa đa bẫy được.

Vua thấy chim béo mừng rỡ, truyền lệnh cho mèo lấy vàng ở kho chất vào bị, tha hồ mang được bao nhiêu thì cứ việc lấy. Vua phán:

- Cho ngươi mang về biếu chủ ngươi và nói là ta đa tạ về món quà biếu.

Trong lúc đó, người con bác thợ xay lúa nghèo nàn, ngồi bên cửa sổ chống đầu vào tay nghĩ: còn bao nhiêu tiền đã bỏ ra sắm đôi hia cho mèo mất rồi, không biết có ăn thua gì không? Vừa khi ấy, mèo bước vào, bỏ bị xuống, cởi bị ra đổ vàng xuống trước mặt chủ
mà nói:

- Thưa cậu, đây có ít nhiều trả tiền đôi hia cho cậu. Nhà vua còn gửi lời chào và đa tạ cậu.

Anh ta mừng vì được của nhưng không hiểu đầu đuôi ra sao. Mèo ta vừa tháo hia vừa kể lại chuyện và bảo:

- Giờ thì quả là cậu có đủ tiền rồi, nhưng không phải chỉ có thế thôi đâu. Đến mai tôi lại xỏ hia vào, cậu sẽ lại giàu có hơn nữa. Tôi cũng đã tâu với vua cậu là một vị bá tước.

Hôm sau, mèo lại y lời, đi hia cẩn thận rồi đi săn, mang đến cho vua một mớ chim đa đa. Ngày nào mèo cũng mang vàng về nhà, mèo được vua yêu quí, tha hồ ra vào cung điện.
Có lần mèo đứng sưởi bên lửa trong bếp nhà vua. Tên đánh xe vào và nguyền rủa: "Ma quỉ hãy bắt vua và công chúa đi cho rảnh! Ai lại mình định ra quán đánh chén và chơi bài một phen, thì lại phải đánh xe cho họ ra hồ chơi!".

Nghe vậy, mèo vội lén về nhà bảo chủ:

- Nếu cậu muốn thành bá tước và trở nên giàu có thì cậu hãy đi với tôi ra hồ, rồi xuống hồ mà tắm.

Người con bác thợ xay im lặng, đi theo mèo, cởi sạch quần áo nhảy xuống nước. Mèo lấy quần áo mang đi giấu một chỗ. Vừa làm xong thì xe vua đi tới. Mèo liền lên tiếng than vãn nghe mà não ruột:

- Trời ơi! Tâu bệ hạ, bá tước chủ tôi đương tắm ở dưới hồ thì có một tên ăn trộm đến lấy quần áo để ở trên bờ. Chủ tôi đang ở dưới nước lên không được; nếu ở lâu nữa thì đến cảm mà chết mất thôi!

Vua nghe vậy, cho dừng xe lại, phán cho một tên hầu chạy về lấy bộ quần áo của nhà vua. "Bá tước" mặc bộ quần áo lộng lẫy vào. Nhà vua biệt đãi chàng vì cứ tưởng chàng biếu chim đa đa là bá tước thật, và cho chàng ngồi lên xe. Công chúa cũng lấy làm thích
vì bá tước vừa trẻ vừa xinh trai, lại dễ thương. Mèo đi trước tới một cánh đồng cỏ rộng mênh mông có trên một trăm người đương cắt cỏ.

Mèo hỏi:

- Cánh đồng nhà ai thế?

- Của thầy phủ thủy đấy.

Mèo dặn họ:

- Các bác này, nhà vua sắp đi xe qua đấy. Nếu vua hỏi cánh đồng cỏ của ai thì các bác cứ đáp là của bá tước nhé. Nếu các bác không nói thế là bị đánh chết tươi đấy.

Mèo lại đi nữa, tới một cánh đồng lúa bát ngát ai đi qua cũng phải để ý. Có tới trên một trăm người đang gặt lúa. Mèo hỏi:

- Các bác ơi, lúa nhà ai thế?

- Của thầy phù thủy đấy.

Mèo dặn:

- Các bác này, nhà vua sắp đi xe qua đấy. Nếu vua hỏi lúa của ai thì các bác cứ đáp là của bá tước nhé. Nếu các bác không nói là bị đánh chết tươi đấy.

Mèo đi mãi tới một khu rừng đẹp, có trên ba trăm người đang đẵn những cây sồi to để lấy củi. Mèo hỏi:

- Các bác ơi, rừng nhà ai thế?

- Của thầy phù thủy đấy.

Mèo dặn:

- Các bác này, nhà vua sắp đi xe qua đấy. Nếu vua hỏi rừng của ai thì các bác cứ đáp là của bá tước nhé. Nếu các bác không nói thế thì bị giết hết đấy.

Mèo lại đi nữa. Mọi người đều nhìn theo thấy mèo có vẻ kỳ dị, nom như người đi hia thì sợ lắm. Một lát sau mèo tới lâu đài của thầy phủ thủy, ngang nhiên tiến vào. Lão phù thủy nhìn mèo một cách khinh khỉnh hỏi nó muốn gì. Mèo vái chào nói:

- Tôi nghe nói ông có thể tùy ý muốn biến ra con vật gì cũng được. Tôi tin là biến ra chó, cáo hay cả chó sói thì còn được, chứ biến thế nào ra voi được. Do đó tôi đến tận nơi để xem có đúng không.

Lão phủ thủy dương dương tự đắc đáp:

- Làm quái gì cái vặt ấy.

Rồi trong nháy mắt lão biến ra voi.

Mèo bảo:

- Khá lắm, nhưng có biến ra sư tử được không?

Lão phù thủy đáp:

- Dễ không!

Rồi lão biến ra sư tử.

Mèo làm ra bộ sợ hãi kêu lên:

- Thật là trên trời đất chưa từng thấy! Ngay trong giấc mơ, tôi cũng chưa từng thấy. Nhưng nếu thầy biến ra thành một con vật nhỏ như con chuột thì mới thật là tài thánh. Thầy nhất định là giỏi hơn các thầy phù thủy trên đời, nhưng chắc không làm nổi đâu.

Lão phủ thủy nghe phỉnh bùi tai, có vẻ thích lắm nói:

- Này chú mèo thân mến ạ, việc đó ta cũng làm được.

Lão biến ra con chuột nhắt nhảy tung tăng trong buồng. Mèo theo sau vồ lấy chuột ăn.

Vua cùng bá tước và công chúa đi xe tới cánh đồng cỏ mênh mông.

Vua hỏi:

- Cỏ của nhà ai đấy?

Mọi người đều trả lời theo mèo dặn:

- Tâu bệ hạ, của đức ông bá tước ạ.

Vua phán:

- Bá tước có mảnh đất đẹp quá.

Tới cánh đồng lúa bát ngát, vua hỏi:

- Lúa nhà ai đấy chúng bay?

- Tâu bệ hạ, của đức ông bá tước ạ.

Vua phán:

- Chà chà! Đất vừa rộng đẹp quá.

Tới rừng, vua hỏi:

- Rừng nhà ai thế chúng bay?

- Tâu bệ hạ, của đức ông bá tước ạ.

Vua càng ngạc nhiên hơn nữa bảo:

- Bá tước ạ, bá tước hẳn là giàu lắm. Ta chưa chắc đã có một khu rừng đẹp đến thế.

Đi tới lâu đài thì đã thấy mèo đứng đợi ở đầu cầu thang. Xe vừa đỗ, mèo đã nhảy xuống mở cửa nói:

- Tâu bệ hạ, đây là lâu đài của bá tước chủ tôi. Bệ hạ tới đây thật là hân hạnh suốt đời cho chủ tôi.

Vua xuống xe, ngạc nhiên thấy tòa nhà lộng lẫy, to hơn và đẹp hơn cả cung điện của mình. Bá tước dẫn công chúa vào phòng tiếp tân sáng loáng vàng ngọc châu báu.
Công chúa đính hôn với bá tước và khi vua mất, bá tước lên nối ngôi, phong cho mèo đi hia làm tể tướng.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:44  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Con quỷ và bà nó



Grim




Ngày xưa xảy một cuộc chiến tranh lớn. Nhà vua có rất nhiều lính, trả lương cho họ quá ít, không đủ để sống. Có ba người lính bèn rủ nhau đào ngũ.

"Nếu họ bắt được chúng ta, họ sẽ treo cổ chúng ta. Vậy thì làm thế nào bây giờ?", người thứ nhất nói.

Người thứ hai nói:

- Cách anh hãy trông cánh đồng lúa bát ngát kia. Nếu chúng ta trốn trong đó thì không ai có thể tìm thấy được chúng ta. Quân đội không được phép sục vào ruộng lúa. Ngày mai thì đơn vị mình đã chuyển quân đi nơi khác.

Thế là họ chui vào ruộng lúa, nhưng quân đội không di chuyển đi đâu mà ở nguyên vị trí chung quanh đó. Ba người lính trốn trong ruộng lúa hai ngày, hai đêm. Họ đói lả như sắp chết đến nơi. Họ không dám ló ra vì sợ chết. Họ bảo nhau: "Trốn trong ruộng lúa này không được tích sự gì cả. Chúng ta sẽ chết và thối rữa ra ở đây mất
thôi".

Đúng lúc đó, có một con rồng lửa bay trên trời qua đó. Nó xà xuống gần họ và hỏi tại sao lại trốn ở đấy. Họ trả lời: "Chúng tôi là ba người lính, chúng tôi đào ngũ vì lương ít quá. Giờ thì chúng tôi sẽ chết đói ở đây hoặc người ta sẽ treo cổ chúng tôi nếu chúng tôi ra khỏi đây"

- Nếu các anh đồng ý phục vụ ta bảy năm, Rồng nói, - ta sẽ đưa các anh lên cao, bay qua cả cánh quân lớn mà không ai chạm được vào các anh.

- Chúng tôi làm gì có quyền lựa chọn, đành bằng lòng thôi - Họ trả lời.

Rồng quắp họ vào móng, đưa họ khỏi cánh quân khá xa, rồi lại để họ xuống đất. Rồng đâu phải ai khác, chính nó là con quỷ. Nó đưa cho họ một cái roi nhỏ và bảo: "Các anh hãy tự đánh vào người bằng cái roi này, ở trong người các anh sẽ tuôn ra số tiền mà các anh cần có; các anh sẽ sống sung sướng như ông hoàng, tha hồ lên
xe xuống ngựa. Nhưng sau bảy năm, các anh sẽ thuộc về ta". Nó đưa cho ba người lính một quyển sách và bảo ký tên vào đó. Nó lại nói thêm:

- Lúc đó sẽ ra cho các anh một câu đố, nếu giải được thì các anh sẽ được tự do và thoát khỏi quyền lực của ta". Nói xong, con rồng bay đi.

Ba người lính bắt đầu sử dụng cái roi. Họ có nhiều tiền, họ đi may quần áo sang trọng và đi chu du thiên hạ. Ở đâu họ cũng sống vui và xa hoa, lên xe xuống ngựa, ăn uống thỏa thích nhưng họ không làm điều gì xấu. Thời gian trôi đi rất nhanh, và bảy năm sắp qua. Hai người lính cảm thấy tim thắt lại vì sợ hãi. Trong khi đó,
người thứ ba vẫn còn nhìn mọi việc với khía cạnh tốt. Anh nói: "Các cậu ạ, đừng sợ! Tớ có phải là đồ ngu đâu! Tớ sẽ giải được câu đố!"

Họ cùng đi ra cánh đồng, ngồi xuống. Hai người đầu mặt mày rầu rĩ. Lúc đó, có một bà già đi tới. Bà hỏi tại sao họ buồn thế? - "Dào ôi! Cụ biết thì có ích gì cho cụ đâu? Dù sao, cụ cũng không giúp gì được chúng tôi!"

- Biết đâu đấy! - Cụ trả lời - Các anh hãy tin ta, hãy kể ta nghe nỗi lo lắng của các anh.

Họ kể với bà cụ là đã thành người hầu của con quỷ trong bảy năm. Nó đã cung cấp cho họ tiền tiêu tha hồ, và họ sẽ thuộc hẳn về nó nếu sau bảy năm, họ không giải được một câu đố. Bà già nói:

"Nếu các anh muốn ta giúp đỡ, thì một người trong các anh phải vào rừng. Anh ta sẽ đến một tảng núi bị sập, nom như một cái nhà. Anh ta phải vào trong nhà ấy và sẽ được giúp đỡ".

Hai người lính đầu buồn rầu nói: "Có làm việc đó cũng không đi đến đâu cả", rồi ngồi ỳ ra. Người thứ ba luôn luôn vui vẻ, đứng dậy đi vào rừng; anh đi mãi cho tới khi tới cái nhà ở tảng núi sập. Trong nhà có một cụ già ngồi như phỗng đá. Đó là người đàn bà của quỉ. Cụ hỏi anh, ở đâu đến và muốn gì. Anh kể cụ nghe những việc đã
qua. Vì anh được lòng bà cụ nên cụ thương hại anh và hứa sẽ giúp anh. Cụ nhấc hòn đá to che lối vào một cái hầm và bảo: "Anh hãy trốn vào đấy. Anh sẽ nghe thấy mọi lời nói. Hãy bình tĩnh và đừng có bị kích thích, khi rồng về, ta sẽ hỏi nó về câu đố. Nó sẽ nói hết với ta. Còn anh, anh hãy lắng nghe các câu nó trả lời".

Đến nửa đêm, rồng về và đòi ăn. Bà nó dọn ra bàn ăn rượu và đồ nhắm để nó vui lòng. Họ cùng nhau ăn uống. Trong khi nói chuyện, bà nó hỏi nó về các chuyện xảy ra trong ngày, và nó đã chiếm được bao nhiêu linh hồn. "Hôm nay, cháu không gặp may - nó trả lời. Nhưng cháu đã bắt được ba thằng lính, chắc chắn cháu
sẽ chiếm được linh hồn những thằng này" - "Ba người lính à! Bà cụ hỏi, đó là những trai tráng, có thể chúng nó sẽ thoát tay mày".

Con quỉ nói với giọng khinh miệt: "Chúng thuộc về cháu mà. Cháu sẽ ra cho chúng một câu đố mà chúng không giải được" - "Câu đố thế nào?" Bà hỏi.

- Để cháu nói và nghe: ở biển Bắc bao la có một con mèo biển chết, nó sẽ được mang rán và cháu sẽ cho chúng ăn. Một cái xương sườn cá voi sẽ dùng làm thìa và một cái móng ngựa cũ dùng làm cốc cho chúng uống rượu vang.

Khi con quỉ đi ngủ, người bà nhấc hòn đá lên, cho người lính ra.

- Anh đã nghe thấy hết chưa?

- Thưa cụ rồi ạ, cháu đã biết kha khá và cái đó sẽ giúp cháu.

Anh lính trèo qua cửa sổ không một tiếng động, và vội vào đi tìm các bạn. Anh kể cho họ nghe là người bà sẽ giương bẫy lừa con quỷ thế nào và anh đã học được cách giải câu đố. Cả bọn đều vui vẻ, mặt mày hớn hở, cầm roi đánh vào người và tiền vung ra khắp bốn phía. Bảy năm đã trôi qua. Con quỉ mang quyển sách đến, chỉ cho họ những chữ ký và bảo:

- Ta sẽ dẫn các anh xuống địa ngục, ở đấy các anh sẽ được ăn một bữa. Nếu các anh đỗán sẽ được ăn thịt gì rán, thì các anh sẽ được tự do và được giữ lại cả cái roi nữa. Lúc đó người lính thứ nhất bắt đầu nói:

- Ở biển Bắc bao la, có một con mèo biển chết. Chắc chắn nó sẽ được rán cho bọn tôi ăn.

Con quỷ nổi giận, nói "Hừ! Hừ! Hừ!" và hỏi người lính thứ hai:

"Nhưng các anh lấy gì làm thìa?" - "Một cái sườn con cá voi sẽ dùng làm thìa".

Con quỉ tái mặt đi, lại làu nhàu ba lần: "Hừ! Hừ! Hừ!" và bảo người lính thứ ba: "Anh có biết là cái gì sẽ dùng làm cốc uống rượu vang không?" - "Một cái móng ngựa cũ sẽ dùng làm cốc uống rượu vang cho chúng tôi".

Quỷ liền bay đi và thét to lên. Nó không còn quyền lực gì đối với ba người lính. Còn ba người lính thì giữ lại được cái roi, họ làm ra rất nhiều tiền tùy theo ý muốn và sống sung sướng đến hết đời.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:45  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Ả Grê-ten thông minh




Grim




Ngày xưa có một cô ả nấu bếp tên là Grê-ten. Ả thường đi giày gót đỏ khi dạo chơi, ả ngó đông ngó tây, thích chí nghĩ bụng mình cũng vào loại xinh đấy chứ. Về đến nhà, ả cao hứng uống ngụm rượu vang; ả nếm tất cả các món ngon nhất ả đã nấu, nếm đến no nê. Ả nói :

- Người đầu bếp là phải biết món ăn mình nấu vị ra sao chứ ?

Một hôm, ông chủ bảo ả :

- Grê-ten này, tối nay nhà có khách. Mày hãy thịt hai con gà mái mà nấu cho ngon nhé.

- Thưa ông, xin ông hãy để cháu lo – Grê-ten trả lời.

Ả giết hai con gà mái, nhúng nước sôi, làm lông, xiên vào xiên, đến chiều thì mang quay trên lửa. Gà vàng dần và đã vàng rộm đều mà khách vẫn chưa đến. Grê-ten thưa với chủ :

- Thưa ông, nếu khách chưa đến thì cháu phải nhấc gà ra khỏi lửa. Thật là đáng tiếc. Gà vừa chín tới, tí nữa ăn ngay thì ngon thật.

Chủ nói :

- Thôi để tao chạy đi gọi khách ngay.

Chủ vừa quay lưng đi thì Grê-ten nhấc gà ra khỏi lửa và nghĩ :” Đứng gần lửa mãi vừa nóng vừa khát, biết bao giờ khách mới đến ? Trong khi chờ, mình phải xuống hầm uống ngụm rượu vang đã.

Ả chạy xuống hầm, lấy đầy một vò rượu rồi nói : “Lạy chúa phù hộ cho con”, rồi uống một hơi dài. “Rượu đã chạy là chảy mạnh, - ả nói – khó mà ngừng đựơc”, ả lại uống tiếp một cách thoải mái. Ả lại chạy lên bếp, đặt gà lên lửa, phết bơ và vui vẻ quay cái xiên. Gà quay thơm điếc mũi. Ả nghĩ bụng hãy còn thiếu cái gì đó phải nếm xem sao. Ả nhúng ngón tay vào nước sốt, liếm và nói :

- Ồ, những con gà mái này ngon tuyệt ! Không ăn ngay thì thật là có tội, thật đáng xấu hổ.

Ả chạy ra cửa sổ nhìn xem ông chủ và khách đã về chưa. Nhưng ả chẳng thấy ai cả. Ả lại quay về với những con gà và nghĩ : “Một cánh bị cháy, tốt nhất là chặt đi”. Ả chặt cái cánh và ăn ngon lành. Ăn xong một cánh, ả tự bảo : “Mình phải chặt nốt cái cánh kia đi nếu không ông chủ về thấy có gì thiếu”. Ả xơi cả cái cánh rồi ra cửa sổ xem chủ về chưa nhưng không thấy ai ! Ai mà biết ông ấy nghĩ ra cái gì ? Không thấy họ về, có thể là họ đi đâu đấy.

Ả nói : -“Này, Grê-ten ạ, việc gì mà phải thắc mắc ! Khi bắt đầu ăn một con gà thì hãy uống nữa đi và chén nốt đi ! Sau đó thì sẽ yên tâm. Tại sao lại phí của giời thế”. Ả lại chạy xuống hầm, uống ra trò rồi chén nốt con gà một cách vui vẻ.

Thế là ăn sạch một con gà. Chủ thì vẫn chưa về. Grê-ten liếc nhìn con gà thứ hai và nói :

- “Phải cho con này đi theo con kia thôi, không thể tách chúng ra được. Đối xử với con kia thế nào thì hẳn là đối với con này cũng phải thế. Mình cho là nếu có uống thêm một chút thì cũng chẳng hại gì”. Ả lại phấn khởi uống , con gà thứ hai cũng chạy theo con thứ nhất. Khi ả đang ăn ngon lành thì ông chủ về.

- Nhanh lên, Grê-ten – ông chủ gọi to – khách đến ngay giờ đấy.

- Thưa vâng, - Grê-ten trả lời – xong ngay đây ạ.

Ông chủ đến bàn ăn xem sắp xếp đủ chưa. Ông mang con dao để cắt thịt đi mài. Đúng lúc đó, khách gõ cửa khe khẽ và lịch sự. Grê-ten ra cửa, thấy khách thì đưa ngón tay lên môi ra hiệu và nói :

- Khẽ chứ ! Khẽ chứ ! Ông hãy mau chạy ngay đi ! Nếu chủ tôi trông thấy ông thì nguy cho ông đấy. Chủ tôi đã mời ông đến ăn, nhưng cốt để xẻo đôi tai ông đấy. Ông có nghe tiếng mài dao không ?

Khách nghe quả là đúng có tiếng mài dao, vội ba chân bốn cẳng chạy xuống thang. Grê-ten lúc đó cũng vội chạy đến chỗ ông chủ mồm loa mép giải :

- Ông ơi, khách của ông sao quý hoá thế !

- Ồ, mày nói gì lạ vậy, Grê-ten ?

- Ông ta đã cướp của cháu hai con gà đặt trên đĩa rồi chạy biến đi.

- Tệ quá – ông chủ nói, tiếc rẻ hai con gà mái ngon lành – ít ra thì ông ta cũng phải để lại một con cho mình chứ !

Ông gọi to mời khách trở lại, nhưng khách giả đò không nghe thấy. Ông liền chạy theo khách, dao hãy còn cầm ở tay và réo : “Một thôi ! Một thôi ! – ý nói là khách ít ra cũng phải để lại một con gà. Nhưng khách lại hiểu là chủ đòi một cái tai, nên chạy lao đi như gió, để mong giữ được cả hai tai nguyên vẹn về nhà.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:47  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Những món quà của người tí hon




Grim




Một bác thợ may và một bác thợ vàng cùng đi với nhau. Một hôm, mặt trời vừa lặn sau núi, họ thấy xa xa có tiếng nhạc, càng đến gần nghe càng rõ. Tiếng nhạc kỳ lạ nhưng du dương khiến họ quên cả mệt mỏi rảo bước đi về phía đó.

Khi họ đến một quả đồi thì trăng đã lên. Trên đồi có một đám người nhỏ bé, vừa đàn ông, vừa đàn bà, cầm tay nhau nhảy múa vui vẻ và ca hát thật là êm tai. Đó chính là tiếng nhạc mà hai bác đã nghe thấy khi đi đường.

Một ông lão lớn hơn những người khác một tí ngồi ở giữa. Cụ có chòm râu bạc rủ xuống tận ngực và mặc một cái áo màu sặc sỡ. Hai người ngạc nhiên đứng ngẩn ra nhìn họ nhảy. Ông lão vẫy tay mời khách vào; những người lùn vui vẻ mở rộng vòng ra đón. Bác thợ vàng có bướu ở lưng vốn liều lĩnh như tất cả các người gù, nhảy vào trước. Bác phó may mới đầu còn ngần ngừ chưa dám vào, nhưng thấy vui quá, cũng đành bạo vào theo. Vòng múa khép lại, các người lùn lạ hát và nhảy múa loạn xạ. Ông lão rút ở thắt lưng ra một con dao to để mài; khi thấy khá sắc, cụ liền ngoảnh lại nhìn hai người lạ mặt. Hai bác hoảng hồn chưa kịp suy nghĩ gì thì cụ đã nắm lấy bác thợ vàng và chỉ trong nháy mắt, cạo xoẹt cả râu lẫn tóc. Bác thợ may cũng chịu số phận ấy. Nhưng họ hoàn hồn ngay khi thấy ông cụ cạo xong thì thân mật đến vỗ vai họ dường như khen họ có thái độ ngoan ngoãn như thế là phải. Cụ chỉ một đống than gần đó, ra hiệu cho họ lấy đầy túi áo. Hai bác vâng theo, tuy nhiên không hiểu lấy than để làm gì. Sau đó họ đi tìm chỗ ngủ. Khi họ đến thung lũng thì chuông ở một tu viện gần đó báo nửa đêm. Ngay lúc ấy, tiếng ca hát ngừng bặt, đám người Tí hon biến mất. Dưới ánh trăng, quả đồi lại im lặng như tờ.

Hai người bạn đường tìm vào quán trọ, nằm trên đệm rơm, lấy quần áo ra đắp. Họ mệt quá, quên cả bỏ than ở túi ra. Than đè nặng nên sáng họ thức sớm hơn thường ngày. Họ thò tay vào túi, nhưng không dám tin mắt mình khi thấy bàn tay đang nắm đầy vàng nguyên chất chứ không phải là than. Còn râu và tóc thì may quá, đã mọc đủ cả.

Thế là họ trở nên giàu có. Nhưng bác thợ vàng có nhiều của hơn, vì vốn tính tham lam, bác ta đã ních nhiều than hơn.

Thói thường, lòng tham không đáy. Đã có lại muốn có nhiều hơn, bác thợ vàng rủ bạn nấn ná ở lại ngày nữa, để tối ra quả đồi chỗ ông cụ, kiếm thêm ít vàng. Bác thợ may từ chối bảo:

- Thôi đủ rồi. Tôi mãn nguyện rồi. Giờ thì tôi có thể thành thợ cả, cưới người yêu, thế là hạnh phúc.

Nhưng chiều ý bạn, bác ở lại thêm một ngày.

Buổi tối hôm đó, bác thợ vàng đeo mấy cái bao để lấy cho nhiều, rồi đi ra phía đồi. Cũng như tối hôm trước, bác thấy những người Tí hon đang ca hát nhảy múa. Ông lão lại cạo nhẵn đầu, râu bác, rồi ra hiệu bảo lấy than. Bác ta hăm hở nhét đầy các bao, hớn hở ra về đắp áo ngủ. Bác nghĩ bụng:

- Dù vàng đè nặng, ta cũng chịu được.

Rồi bác ta thiu thiu ngủ, yên trí sớm mai dậy sẽ giàu nứt đổ lá vách.

Vừa mở mắt ra, bác đã vội sờ đến bao, nhưng bác ta ngạc nhiên vì chỉ thấy than đen sì, móc mãi vẫn thế.

Bác ta nghĩ là còn chỗ vàng được đêm trước, vội chạy đi lấy, nhưng bác hoảng sợ vì thấy đầu vẫn nhẵn thín, cả cằm cũng. Nào đã hết khổ đâu ạ: lưng đã có một bướu, giờ lại mọc thêm bướu nữa trước ngực. Thấy rõ tham thì thâm, bác khóc nức nở.

Bác thợ may tốt bụng nghe tiếng khóc tỉnh dậy, cố an ủi bạn:

- Thôi thì đôi ta đã là bạn đường, bác cứ ở với tôi, ta cùng hưởng.

Bác thợ may giữ lời hứa, nhưng bác thợ vàng suốt đời phải mang hai cái bướu và phải đội mũ để che cái đầu trọc lóc.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 11:48  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Vua trộm





Grim




Một hôm, hai vợ chồng bác nông dân già ngồi nghĩ trước túp lều tồi tàn sau giờ làm việc vất vả. Bỗng có một cỗ xe tứ mã lộng lẫy đến đỗ ngay trước nhà. Một vị ăn mặc sang trọng bước từ trên xe xuống. Bác trai đứng dậy, tiến đến gần vị quý tộc, hỏi ông cần gì. Người lạ mặt bắt tay bác và nói:

- Tôi chỉ ước ao có một điều là được ăn bữa ăn nông thôn một lần xem sao. Hai bác hãy nấu cho tôi một món khoai tây như bác thường nấu, tôi sẽ rất vui sướng ngồi ăn cùng hai bác.

Bác nông dân cười và nói:

- Ngài hẳn là bá tước, hoàng thân hay hầu tước. Những người lịch sự đôi khi hay thèm như vậy. Tôi xin làm theo ý thích của ngài.

Bác gái vào bếp, rửa và gọt khoai tây để làm món khoai theo kiểu nông thôn. Trong khi bác gái làm bếp, bác trai bảo khách:

- Trong khi chờ ăn, mời ngài ra vườn cùng tôi. Tôi còn phải làm việc ngoài đó.

Bác đã đào hố để trồng cây.

Khách hỏi:

- Bác không có con cái nó đỡ đần cho à?

- Không ! - bác trả lời. - Thật ra tôi cũng đã có một thằng con trai, nhưng nó đi chu du thiên hạ từ lâu rồi. Nó là một thằng hư hỏng, láu cá và nhiều mưu mô. Nhưng nó lại không muốn học hành gì cả, chỉ chuyên đi phá quấy. Cuối cùng, nó bỏ nhà đi, và từ bấy đến nay, tôi không có tin gì về nó cả.

Bác lấy một cây non đặt vào hố và cắm một cái cọc chống bên cạnh. Rồi bác vun gốc; khi đã đắp được đất khá cao, bác buộc cây trồng vào cái cọc chống bằng những cây rạ, buộc trên cao, ở giữa và dưới.

- Bác ơi, - vị khách giàu sang nói, - sao bác không buộc cái cọc chống cho cái cây còi cọc ở trong góc kia cho nó mọc thẳng. Nó mọc gần sát mặt đất vì thân cây cong queo.

Bác cười và nói:

- Ông nói mà chẳng hiểu gì cả. Người ta biết ngay là ông chưa từng làm vườn. Cái cây ấy đã già cỗi, còi cọc. Không ai có thể dựng nó mọc thẳng lên được. Phải uốn cây từ lúc còn non.

- Cũng như thằng con bác ấy, - người lạ mặt nói - khi nó còn trẻ, nếu bác dạy dỗ nó tử tế thì nó đã không bỏ nhà ra đi, hẳn bây giờ nó cũng còi cọc rồi.

- Cái đó thì chắc rồi, - bác nói, - nó đi đã lâu hẳn là nó đã thay đổi.

- Liệu bác có nhận được ra anh ta nếu anh ta đứng trước mặt bác không?

- Nhận được mặt nó cũng khó đấy. Bác nông dân trả lời. - Nhưng nó có một dấu vết đặc biệt, một cái nốt ruồi ở vai, giống như hạt đậu.

Khi bác nói tới đó, người lạ mặt cởi áo ngoài ra, trật vai trần ra và chỉ nốt ruồi cho bác nông dân xem.

- Trời ơi! - Bác kêu lên, - đúng là con ta đây rồi.

Và tình yêu con tràn ngập lòng bác. - Nhưng, bác nói thêm, - có thể nào anh lại là con ta ? Con đã trở thành một ông lớn sống trong giàu sang phú quý ! Làm thế nào con lại được như thế.

- Thưa cha! - Người con trả lời - cây con đã không được buộc vào cọc chống nên đã mọc cong queo. Bây giờ cây già rồi, không mọc thẳng lại được nữa. Sao con lại được như thế này ư? Con đã trở thành một thằng ăn trộm. Nhưng cha đừng sợ. Con là vua trộm. Đối với con thì không có khóa, có then cài nào cả. Cái gì con thích là con chiếm được. Cha đừng nghĩ là con đi ăn trộm như một tên trộm tầm thường. Không. Con chỉ lấy cái thừa mứa của nhà giàu. Những người nghèo thì có thể yên tâm, con còn cho họ là đằng khác, chứ không lấy của họ. Mà lấy trộm cái gì mà không vất vả, không cần có mưu mẹo và khéo léo thì con không lấy.

- Ừ, ừ! - bác nói, - nhưng dù sao ta cũng không hài lòng về con. Thằng ăn trộm vẫn là thằng ăn trộm. Ta nói cho con biết, rồi cũng không ra gì đâu.

Bác dẫn con đến bác gái. Khi nhận ra con trai mình, bác gái khóc vì vui sướng. Nhưng khi bác trai cho biết con là vua trộm thì hai dòng nước mắt buồn tủi lại tràn đầy mặt bác. Cuối cùng bác nói:

- Dù nó có là thằng ăn trộm đi nữa thì nó vẫn là con tôi, tôi cũng rất sung sướng được gặp lại nó.

Mọi người cùng ngồi vào bàn ăn và tên ăn trộm lại được cùng ăn với bố mẹ cái món ăn đạm bạc mà lâu nay nó không ăn. Sau đó người cha bảo:

- Nếu ngài bá tước ở trong lâu đài kia mà biết mày đi ăn trộm thì ông ấy đã không bế mày trong lòng ông mà ru như hôm làm lễ rửa tội cho mày. Ông ấy sẽ lấy thừng treo cổ mày lên cho mày đua đưa.

- Cha đừng lo, - người con nói, - ông ta sẽ không làm gì con đâu: con thạo nghề của con. Ngay hôm nay, con sẽ đến gặp ông ta.

Đến chiều, vua trộm lên xe đi đến lâu đài. Bá tước tiếp đón anh một cách kính nể, coi anh là một vị khách cao quý. Khi khách nói cho chủ biết mình là ai thì ông tái mặt đi và ngồi lặng im một lúc. Rồi ông nói:

- Anh là con đỡ đầu của ta. Đáng lẽ phải xử tội theo pháp luật thì ta tha thứ cho anh, xử sự với anh có độ lượng. Anh đã huênh hoang là vua trộm, vậy ta thử tài anh xem. Nếu anh thất bại thì sợi dây thừng sẽ là vợ anh và tiếng quạ kêu sẽ là nhạc cưới của anh.

- Thưa ngài, - tên trộm nói - ngài hãy thử thách cho ba lần thật khó tùy théo ý ngài; nếu tôi không làm nổi, thi ngài muốn xử tôi thế nào cũng được.

Ông bá tước suy nghĩ một lúc, rồi nói:

- Vậy thì, đầu tiên, anh hãy lấy trộm được con ngựa của ta đang ở trong chuồng. Hai là anh phải lấy trộm được cái khăn trải giường trong khi vợ chồng ta đang nằm ngủ mà chúng ta không biết; đồng thời, anh phải rút được cái nhẫn cưới vợ ta đeo ở ngón tay. Ba là anh phải bắt cóc được cha xứ và người giúp việc ông ngay trong nhà thờ. Hãy để ý đến các điều đó, nếu không thì toi mạng đấy!

Vua trộm đến một đô thị gần nhất. Anh mua một bộ quần áo cũ của một bà nông dân rồi mặc vào. Anh bôi mặt thành da màu nâu, vẽ lên mặt nhiều nếp nhăn. Không ai có thể nhận ra anh. Anh đổ đầy rượu vang Hung vào một cái thùng to; trong rượu anh trộn loại thuốc ngủ rất mạnh. Anh đặt thùng rượu trên một cái giá, vác trên lưng và đi chuệnh choạng, bước chậm chạp đến lâu đài bá tước.

Khi anh đến nơi, thì đêm dã khuya. Anh ngồi trên một hòn đá ở sân, ho lụ khụ như một bà già đau ngực và xoa tay mạnh vào nhau như sắp chết rét. Trước cửa chuồng ngựa, lính canh đang nằm dài quanh đống lửa. Một người trong bọn họ trông thấy bà già liền gọi:

- Lại đây mẹ ơi, mẹ hãy lại đây mà sưởi với chúng con. Mẹ không có nơi ngủ, vậy thì mẹ hãy bạ đâu thì ngủ đấy vậy.

Bà già loạng choạng bước lại gần, nhờ họ nhấc xuống hộ cái giá đỡ và thùng rượu, rồi ngồi bên họ.

- Mẹ có gì trong thùng thế ? - Một người lính hỏi:

- Rượu ngon đấy, - bà trả lời, - tôi buôn rượu mà. Các chú nói tử tế và trả cho tôi ít tiền thì tôi vui lòng để các chú uống một cốc.

- Mẹ rót rượu con uống thử xem, - một chú lính nói. - Uống xong nếu rượu ngon thật, con sẽ làm cốc nữa.

Bà rót rượu cho anh, những người lính khác cũng bắt chước bạn.

- Này! Các bạn ơi, - một người trong bọn họ gọi những người ở chuồng ngựa. - Ở đây có mẹ già mang rượu vang lâu năm, tuổi rượu ngang tuổi mẹ. Hãy lại đây mà uống, các bạn sẽ ấm bụng hơn sưởi lửa.

Bà già mang thùng rượu vào chuồng ngựa. Một người lính ngồi trên con ngựa đã đóng yên của bá tước; một người khác cầm dây cương, người thứ ba đang tết đuôi ngựa. Bà già rót rượu cho mọi người uống thỏa thích, cho tới khi thùng rượu cạn. Chẳng mấy chốc, dây cương tuột khỏi tay người lính đang cầm và anh ta nằm lăn ra đất mà ngáy. Người kia buông đuôi ngựa ra, rồi cũng nằm lăn dài ra mà ngáy rống to hơn. Người cưỡi ngựa vẫn ngồi yên, nhưng cái đầu thì cúi rạp xuống gần cổ ngựa; anh ta cũng ngủ và ngáy như kéo bể lò rèn. Những người lính ở bên ngoài ngủ đã từ lâu. Họ không động đậy, cứ như là người đá.

Khi vua trộm thấy mọi việc đều trôi chảy, anh đặt vào tay người lính sợi thừng thế cho dây cương, anh đặt vào tay người lính kia cái chổi rơm thế cho cái đuôi. Nhưng trường hợp thứ ba, giải quyết người ngồi trên yên ngựa cách nào đây ? Anh không muốn làm cho người lính ngã xuống đất, anh ta sẽ tỉnh dậy và có thể kêu la lên. Vua trộm tìm được một kế hay : anh tháo dây buộc yên ngựa ra treo cái yên ngựa lên tường bằng những sợi thừng luồn qua các cái vòng, rồi kéo chàng kỵ mã lên sát trần nhà. Sau đó anh buộc thật chắc dây thừng vào một cái cột. Loáng một cái, anh đã tháo được ngựa ra khỏi xích. Nhưng từ lâu đài, người ta có thể nghe được tiếng vó ngựa đập trên nền sân bằng đá. Anh bèn lấy giẻ bọc móng ngựa lại, dắt ngựa cẩn thận ra khỏi chuồng và đi qua sân, rồi anh nhảy lên ngựa và phi nước đại.

Khi trời sáng, vua trộm phi ngựa đến lâu đài. Bá tước ngủ dậy và đang đứng nhìn qua cửa sổ.

- Chào ngài bá tước! - Vua trộm kêu to. - Đây là con ngựa tôi đã lấy được ra khỏi chuồng ngựa; ngài hãy nhìn kìa, lính của ngài đang ngủ ngon giấc! Nếu ngài ra chuồng ngựa thì ngài sẽ thấy quân canh gác của ngài thoải mái như thế nào.

Bá tước không nhịn được cười. Ông nói:

- Lần này, anh được cuộc. Nhưng lần sau không dễ may mắn thế đâu. Ta báo cho anh biết: nếu ta bắt gặp anh đang ăn trộm, ta sẽ đối với anh như một tên ăn trộm.

Buổi tối, khi đi ngủ, bà bá tước nắm chặt tay có đeo nhẫn. Bá tước bảo vợ:

- Tất cả các cửa ra vào đều đóng và cài then chặt. Tôi sẽ thức để rình thằng ăn trộm. Nếu nó chui cửa sổ vào, thì tôi sẽ bắn hắn.

Vua trộm lẩn vào trong bóng tối, đến cái giá treo cổ, tháo gỡ xuống một người phạm tội đáng thương treo ở đó; anh cõng cái xác trên lưng đi đến lâu đài. Anh dựng một cái thang ở dưới cửa sổ phòng ngủ của bá tước, công kênh xác chết trên vai và trèo lên. Khi anh lên đã khá cao, đầu người chết đã hiện ra ở cửa sổ, thì bá tước nằm trong giường rẫn rình, bắn một phát súng lục. Lập tức, tên trộm xác người bị treo cổ rơi xuống đất, và nó cũng nhảy xuống khỏi thang chạy nấp vào một góc. Sáng trăng vằng vặc, nó trông thấy rõ ràng bá tước trèo thang xuống, vác cái thây ra vườn… Ông ta đào hố để chôn. Đúng dịp may đây rồi, tên trộm tự nhủ, nó chạy nhanh ra khỏi nơi đang trố, leo lên thang, vào phòng bà bá tước.

- Bà nó ơi, - têm trộm bắt chước giọng ông bá tước để nói, - thằng ăn trộm đã chết rồi. Nhưng nó là con đỡ đầu của tôi, và nó là thằng bịp bợm chứ không phải tên gian ác. Tôi không muốn đưa ra công chúng để làm nhục nó. Tôi cũng thương bố mẹ nó nghèo khổ. Tôi sẽ đem chôn nó ở ngoài vườn trước khi trời sáng để câu chuyện khỏi vỡ lở. Bà đưa cho tôi cái khăn rải giường để tôi liệm nó rồi lẳng lặng vùi nó như một con chó.

Bà bá tước đưa cho tên trộm cái khăn rải giường.

- À mà này, bà ạ, tôi lại nổi máu hào hiệp đây, bà đưa tôi cái nhẫn của bà. Thằng xấu số này đã liều mạng vì cái nhẫn, thôi thì ta cho nó để nó mang theo xuống mồ.

Bà bá tước không muốn trái ý chồng; tuy miễn cưỡng, bà cũng rút nhẫn ra đưa. Tên trộm bước ra với hai thứ đã lấy được, nó về nhà không bị cản trở trước khi ông bá tước chôn xong ở trong vườn.

Sáng hôm sau, ông bá tước ngẩn tò te ra khi tên trộm mang lại cho ông cái chăn và cái nhẫn!

- Mày là phù thủy à? - Ông hỏi - Ai đã kéo mày ra khỏi nấm mồ, là nơi chính tao đã chôn mày. Ai đã làm mày sống lại?

- Ông có chôn tôi đâu, thưa ông bá tước, - tên trộm nói, - đó là xác một người phạm tội đáng thương ở giá treo cổ.

Vá nó kể lại tỉ mỉ nó đã làm thế nào. Ông bá tước phải công nhận nó đúng là một tên ăn trộm nhiều mưu mẹo.

- Nhưng chưa xong đâu! - Ông bảo tên ăn trộm. - Mày còn một việc cuối cùng phải làm và nếu không làm được thì tất cả những việc mày đã làm đều vô ích.

Tên trộm mỉm cười không trả lời.

Đến đêm, nó lại nhà thờ lang, vác một cái bao tải to trên lưng, cắp nách một cái gói, tay cầm một cái đèn.

Trong bao tải có cua, trong gói có những cây nến nhỏ. Tên trộm ngồi ở trong nghĩa địa sát nhà thờ, lôi một con cua trong bao tải ra, gắn lên mai cua một cây nến. Nó thắp nến lên rồi đặt cua xuống đất cho nó bò đi. Nó lấy con thứ hai, cũng làm như vậy, và tiếp tục cho đến khi trong bao tải hết sạch cua. Lúc đó nó khoác một cái áo khoác lông đen dài, giống cái áo của cha xứ và gắn vào cằm một bộ râu dài màu xám. Không ai nhận ra được nó nữa. Nó vào trong nhà thờ, đứng lên trên bục giảng.

Đúng lúc ấy, chuông đồng hồ điểm nửa đêm. Khi tiếng chuông cuối cùng vừa dứt, nó kêu gầm, giọng vang lên:

- Hãy nghe đây, hỡi các người tội lỗi. Ngày tận thế đã đến! Ngày phán xử cuối cùng không còn xa! Hãy nghe đây! Hãy nghe đây! Ai muốn lên Thiên đường thì hãy chui vào cái bao này. Ta là Thánh Pê-tơ-rut, làm nhiệm vụ đóng cửa và mở cửa Thiên đường. Hãy nhìn ra ngoài kia, ở nghĩa địa, những xác chết đang chui ra khỏi mồ và đang gom hài cốt lại. Hãy lại đây, hãy lại đây mà chui vào bao này, ngày tận thế đã đến!

Tiếng tên trộm vang khắp làng. Cha xứ và người giúp việc ở sát nhà thờ, là những người nghe thấy trước tiên. Khi họ trông thấy ánh sáng di động trong nghĩa địa, họ hiểu ngay là có chuyện bất thường xảy ra và họ chạy đến nhà thờ. Họ nghe lời phán truyền của tên trộm một lúc. Người giúp việc lấy khuỷu tay huých cha xứ và nói:

- Dầu sao, cũng không nên bỏ lỡ cơ hội cùng nhau lên Thiên đường không phải nó khó khăn vất vả gì cả.

- Nhất định rồi - Cha xứ trả lời - Tôi cũng nghĩ thế. Nếu anh đồng ý thì ta cùng đi

- Vâng, - người giúp việc nói - nhưng người đi trước phải là cha, con xin theo sau.

Cha xứ tiến lên trước, trèo lên bục giảng, ở đó trên trộm đang cầm bao. Cha chui vào bao trước, theo sau là người giúp việc.

Ngay lập tức, vua trộm cột chặt miện bao và kéo bao từ bục giảng xuống. Mỗi lần đầu của hai người ngớ ngẩn chạm phải bậc lên xuống, têm trộm lại kêu to:

- Chúng ta đang leo núi!

Cứ như vậy nó lôi họ đi qua làng; khi đi một vũng nước thì nó lại kêu:

- Bây giờ chúng ta qua những đám mây sinh ra mưa đấy!

Và, cuối cùng, khi leo lên bậc thềm của lâu đài thì nó kêu:

- Chúng ta đang trèo các bậc thang lên Thiên đường; chúng ta sẽ vào tiền sảnh!

Khi trèo lên cao, nó vứt cái bao vào chuồng chim bồ câu; chim đập cách thì nó nói:

- Các ông có nghe thấy tiếng đập cánh của các thiên thần đang vui đùa không?

Sau đâu đó, nó đóng cửa chuồng chim lại và bỏ đi.

Sáng hôm sau, vua trộm đến gặp bá tước báo là đã làm xong việc thứ ba là bắt cóc cha xứ và người giúp việc ngay trong nhà thờ.

- Thế mày để họ ở đâu ?, bá tước hỏi.

- Họ đang ở trong một cái bao trên chuồng chim bồ câu và họ tưởng là đang ở trên trời.

Bá tước đích thân lên xem và thấy là tên trộm nói đúng. Khi ông mở bao cho cha xứ và người giúp việc ra, ông nói:

- Mày là vua trộm và mày đã thắng cuộc. Nhưng mày hãy đi khỏi xứ sở của ta ! Nếu người ta còn thấy mày ở đây thì chắc chắn mày sẽ hết đời ở trên giá treo cổ.

Vua trộm về từ biệt bố mẹ, rồi lại lên đường đi chu du thiên hạ. Từ đấy, không ai còn tin gì về anh ta nữa.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 13:12  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Sự tích con sư tử




Truyện cổ thế giới





Thuở xưa, có một hoàng tử mới mới lên ngôi hoàng đế. Ngay lập tức chàng muốn đi học phép thuật để củng cố đất nước. Chàng đi tìm một ông thầy bùa chú rất nổi tiếng về phép thuật để học.

Hoàng hậu rất buồn vì ý định của hoàng đế vì nàng sợ sự chia ly, vả lại trên đường đi có rất nhiều nguy hiểm, khó khăn. Nhưng chàng đã quyết và một ngày kia lên đường cùng với bốn người tuỳ tùng.

Đường đi rất khó khăn, vì phải qua những sa mạc rộng lớn và đi vào những vùng rừng sâu đầy thú dữ... nhưng vì họ quá khao khát phép thuật, quyền hành sau này, cho nên những khó khăn chẳng cản được họ.

Ba tháng cực khổ, đói và khát, hoàng đế và bạn hữu chàng đến chỗ của thầy tu. Vị thầy nầy cảm động vì sự dũng cảm của họ nên chấp nhận cho họ học nghề. Nhưng ông ra một điều kiện: họ phải hứa xử trí một cách đạo đức, không bao giờ giết sinh vật nào cả. Nếu tay họ chỉ một lần vấy máu thôi, thì tất cả phép thuật sẽ biến mất đi. Hoàng đế đồng ý.

Sau khi học những phép thuật, họ vui mừng, lên đường trở về cung điện. Nhưng đi một tháng sau, họ lạc trong một khu rừng dày đặc. Họ không nhận ra những đường xưa nữa, và thấy tất cả vật xung quanh họ đều lạ lùng. Lúc đó, hoàng hôn giăng bủa và đêm khuya bỗng nhiên ôm trùm cả phong cảnh rừng tối om. Những vòm lá ngàn cây che mịt mù cả trời đen thui, không cho thấy những ngôi sao nào để mà nhắm hướng. Xung quanh họ bắt đầu vang lên hàng trăm thứ tiếng của thú rừng.

Hoàng đế và các bạn hữu chàng bắt đầu sợ và bàn với nhau dùng phép thuật để biến thành một con thú vật rất mạnh bạo, to lớn, dữ tợn, có thể tự bảo vệ, và làm khiếp sợ những con thú khác. Vì thế, hoàng đế bắt đầu biến thành đầu một con vật, bờm tóc, như vương miện... Ông đại tướng làm theo ngay và biến thành thân người của con động vật ấy... bốn người tùy tùng kia thì biến thành bốn chân... còn lại ông thầy địa, do dự một lúc, rồi biến thành cái đuôi. Con vật ấy có dáng đi hùng dũng như một vị vua nên các con thú rất sợ và không tấn công nó.

Hoàng đế và mấy bạn bè ở như vậy suốt cả đêm dài. Nhưng lúc gần sáng, thì có một con nai non đi qua gần đó. Con sư tử rất đói vì cả ngày chưa ăn, bỗng chìa cánh tay ra, bắt con nai bằng vuốt nhọn, và hai tay giữ mạnh, cắn cổ nai và xé thịt ăn ngon lành...

Mõm nó còn đỏ máu lúc mặt trời dần dần thức dậy. Nó muốn biến lại thành người để tiếp tục đi về cung điện. Nhưng đột nhiên nó nhớ lại là nó đã dùng phép thuật để giết một con thú vật rồi. Lúc đó nó mới biết là nó sẽ không bao giờ trở thành người lại được nữa, và luôn luôn phải sống làm kiếp con sư tử...



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 13:14  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Sự tích hoa chua me đất



Truyện cổ thế giới




Ngày nào cũng phải ăn một thứ cỏ ba lá và gặm nhấm mãi vỏ cây hồ đào, Thỏ Côxôi chán ngấy lên rồi. Nó bèn mò vào vườn bắp cải mới trồng của một bác nông dân. Nhiều bắp cải non đã bị thỏ xơi gọn. Bỗng bác nông dân xuất hiện. Bác khoát tay nói:

- Côxôi ơi, - bác nông dân bảo con thỏ đã ăn no bụng và lúc này đang chùi mép - Ta và mi chưa có giao kèo gì với nhau cả. Ta trồng bắp cải đâu phải cho mi. Nếu như mi cứ ăn mãi như vậy thì ta sẽ trắng tay, mùa thu lấy gì mà làm dưa?

- Làm dưa ư? - Thỏ ngạc nhiên - Cải bắp cũng làm dưa được sao? Hẳn là phải ngon lắm nhỉ?

- Bây giờ chưa phải thời kỳ làm dưa. Tốt nhất mi đừng có đụng tới vườn rau của ta nữa, mùa đông tới, mi hãy lại đây, ta sẽ cho ăn dưa bắp cải.

Thỏ hứa là sẽ không phá vườn rau. Mùa hè, nói chung nó ít phải lo lắng, vì cỏ ba lá ngoài đồng rất sẵn, còn cỏ trên các cánh đồng cũng không hiếm. Nghĩ vậy, thỏ vẫy vẫy cái đuôi ngắn tũn một cách sung sướng.

Thế rồi mùa đông tới, thỏ tìm gặp lại bác nông dân để xin bắp cải muối dưa và đã được bác chiêu đãi một bữa luý tuý. Từ đó thành lệ, ngày nào thỏ cũng được ăn dưa bắp cải. Nhưng mới tới lễ Giáng sinh, toàn bộ số bắp cải muối trong thùng đã hết nhẵn, thế là mùa đông chưa qua, mà thức ăn trong nhà đã chẳng còn gì.

Thấm thoắt đã sang mùa xuân. Bác nông dân bảo thỏ:

- Thỏ ơi, ruộng nhà anh rộng hơn ruộng nhà tôi, vậy nên trồng bắp cải đi.

- Nhưng tôi không có cải giống - Thỏ buồn rầu đáp.

- Đến Riga mà mua. Mùa xuân nào tôi chẳng mua giống ở đó.

Bác nông dân tìm cách thoát khỏi thỏ. Thỏ kiếm đâu ra tiền để mua vé tàu? Nhưng chú thỏ này của chúng ta không đến nỗi ngốc nghếch, mặc dù đôi tai của nói ngắn hơn so với đôi tai của đồng loại. Nó hăm hở đứng ở nhà ga để chờ tàu và nó thấy bất kỳ ai đến nhà ga cũng đều bỏ tiền ra mua vé.

- Các bác định làm gì với những chiếc vé này? - Nó hỏi.

- Chúng tôi đến Riga - mọi người đáp.

- Thế lên tàu không có vé, được chứ? - Thỏ hồi hộp

- Không thể được

Thật chả ra sao! đành phải quay về thôi, không cần đến Riga, không cần mua bắp cải giống nữa. Nó ngồi xuống bên đường và lau nước mắt. Bỗng có tiếng thét kinh hoàng vang trên đầu nó: "Chó săn đấy!" Thỏ thấy lạnh toát ở chỗ đuôi, toan trốn chạy, song nó lại đứng ngây ra ở bên cột đèn. Và cũng thật lạ thay. Không phải là chó săn mà là những ngôi nhà nhỏ di động trên các bánh xe tiến về phía nhà ga, còn mọi người thì vội vã leo lên đó.

"Họ đến Riga đấy!" - Thỏ ngạc nhiên nghĩ.

- Chúc lên đường may mắn! - Thỏ hét to khi tàu chuyển bánh.

"Gượm đã, mà vì sao ta lại không đến chơi Rừng Thú nhỉ?" - Thỏ nghĩ và nhảy luôn lên xe hoả, ngồi nghiêm chỉnh như Thượng đế. "Ê, ta muốn đến tận Riga cơ, đời thỏ của ta không còn gì hơn thế".

Và thế là thở cảm thấy vô cùng thú vị khi được ngồi trên tàu hoả, quên luôn cả ý định xuống chơi Rừng Thú. Còn đoàn tàu thì cứ từ từ tiến về phía nhà ga.

Tới nhà ga, Thỏ vội vã tìm quầy bán cây giống.

- Anh bạn trẻ cần gì? - Người bán hàng hỏi một cách lịch sự.

- Tôi cần cây bắp cải giống - Thỏ nhỏ nhẹ đáp.

- ở đây nhiều thứ cải giống lắm. Tôi có thể giới thiệu để anh mua cải bắp, súp lơ, cà rốt. Anh bạn trẻ muốn cà rốt nhé? Mùa hè có thể ăn lá, mùa đông thì gặm lõi bắp cải được đấy.

- Chị không có bắp cải giống nào khác nữa à? - Thỏ dè dặt hỏi.

- Không - Người bán hàng khoát tay.

- Tôi cần bắp cải muối dưa - Thỏ không giấu diếm nữa.

- Anh cần bắp cải muối dưa ư? - người bán hàng thốt lên với một giọng dễ nghe - Thứ đó chúng tôi vẫn thường cho không. - Vừa nói chị ta vừa lục trong túi giấy số bắp cải còn sót đưa cho thỏ và dặn thêm - Đưa về trồng, đợi đến Lễ Giáng sinh sẽ có dưa chua ăn.

Thỏ hí hửng trở về nhà. Nó đem trồng bắp cải ngay trên khu đất đồi ẩm ướt rồi tự ngồi canh gác để muông thú khỏi đến phá phách. Vợ thỏ cùng với lũ con suốt từ sáng đến tối ra sức tưới tắm cho bắp cải. Khi một cây cải ba lá bắt đầu cuốn, thỏ liền nhổ lên:

- Sói sẽ xé xác ta, nếu đây không phải là bắp cải muối dưa thật sự - Thỏ vừa nói vừa thong thả nhấm chiếc lá nhỏ xíu.

Giờ thì cả nhà thỏ không rời mắt khỏi vườn bắp cải, suốt mùa hè chúng được mặc sức thưởng thức cải muối dưa và luôn tấm tắc khen ngon.

Thỏ ta rất dương dương tự đắc. Nó mời từng người một tới nhà ăn cải bắp muối dưa và luôn mồm kể chuyện nó đã đến Riga mà không mua vé như thế nào.

Từ đó, cây bắp cải của thỏ được mang cái tên là Hoa Chua Me Đất còn những hành khách đi tàu không chịu mua vé, ấy là họ hàng nhà Thỏ.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 13:15  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Cô gái vàng



Truyện cổ thế giới



Ngày xưa có một nguời thợ rèn nghèo, không có nổi một túp liều để ở. Vo con anh thường xuyên đói rét. Một hôm quá quẫn trí người thợ rèn đem mấy đồng tìên cuối cùng ra mua một đoạn dây thừng, định chấm dứt cuộc đời của mình.

Nguời thợ rèn vào rừng, tìm một cành cây to và treo sợi dây thừng lên. Trứơc khi cho đầu vào chiếc thòng lọng, bỗng nhiên anh ta thấy ở dưới đất hiện lên một người đàn bà da đen. Bà ta nói với người thợ rèn:

- Anh chàng thợ rèn ơi! Hãy dừng tay lại!

Người thợ rèn giật mình, buông dây thừng. Ngay lúc đó, người đàn bà da đen biến mất. Người thợ rèn không biết bà ta đi đâu, bèn cho đầu vào thòng lọng; liền đó người đàn bà da đen xuất hiện và lấy ngón tay đe doạ người thợ rèn:

- Ta đã nói với anh rồi, anh chàng thợ rèn tội nghiệp ạ! Anh phải sống chứ!

Nghe vậy, người thợ rèn tháo dây thừng quấn lại và quay về nhà. Trên đường về, anh ta tự nghĩ thầm là hiện nay ở nhà chỉ có đói khát đang chờ đợi anh. Tốt nhất là treo cổ chết còn hơn là phải chết đói! Bởi thế, người thợ rèn lại quay vào khu rừng tìm một cành cây to và ném sợ dây thừng lên, rồi buộc một chiếc thòng lọng.

Vừa lúc ấy, ở dưới đất lại xúât hiện người đàn bà da đen. Lần này, bà ta nghiêm khắc nói:

- Tại sao anh không nghe lời ta, hỡi anh chàng thợ rèn?

Người thợ rèn buồn rầu trả lời:

- Bà là ai mà tôi phải vâng lời bà? Gia đình tôi sắp chết cả rồi!

- Không phải chết đói cả đâu mà sợ! Tôi sắp sửa cho anh nhìêu tiền, nếu như anh muốn. Nhưng anh phải trả lại ta một cái gì trong nhà của anh mà anh chưa biết.

Quả thật, người đàn bà da đen đưa cho anh chàng thợ rèn một túi tiền. Túi quá nặng, khiến anh không thể nào vác đi một cách dễ dàng được. Anh vui vẻ cám ơn người đàn bà da đen rồi vội vã mang túi tiền về nhà.

Thấy người thợ rèn bước đi, người đàn bà dặn với:

- Anh thợ rèn ơi, đừng quên lời hứa đấy. Cái gì ở trong nhà mà anh chưa biết là thuộc về ta đấy nhé!

Người thợ rèn về đến nhà. Anh hồi hộp mở cái túi ra, thấy có rất nhìêu tìên vàng. Anh mừng rỡ không sao kể xiết.

- Cái túi tiền này đủ làm chúng ta sống hạnh phúc! Vợ người thợ rèn trông tiền vàng kêu lên và vui vẻ chỉ cho chồng thấy một đứa bé gái có mái tóc bằng vàng nằm trên tay: Đó là đứa con gái nhỏ của họ vừa mới ra đời. Trông thấy đứa bé, người thợ rèn buồn rầu, vì anh biết người đàn bà mong muốn điêu gì rồi.

Thấm thoát, đứa bé đã lên bảy tuổi và có tên là cô gái vàng. Một hôm, người dàn bà da đen đi chiếc xe ngựa cũng màu đen, đến nhà người thợ rèn.

- Ta đến đón con gái anh đây! – Bà ta vừa nói với người thợ rèn và lôi tay cô gái vàng lên xe ngựa. Mặc cho cha mẹ và chị gái các cô gái vàng khóc lóc, van xin, người đàn bà da đen vẫn không động lòng thương xót. Bà ta lấy roi đánh ngựa và chiếc xe đen chuyển bánh.

Người đàn bà da đen đưa cô gái vàng đi mãi, đi mãi. Họ đến một khu rừng rậm rạp và dừng lại trứơc một toà lâu đài màu đen đồ sộ. Bà ta nói với cô gái vàng:

- Trong lâu đài có một trăm căn phòng. Con chỉ được phép vào chín mươi chín căn phòng, trừ căn phòng cuối cùng, nếu con vào căn phòng thứ một trăm, con sẽ bị trừng phạt khủng khiếp. Bảy năm nữa ta sẽ quay lại đây kiểm tra sự trung thực của con.

Nói xong, người đàn bà da đen đi thẳng.

Cô gái vàng sống một mình trong lâu đài không đến nỗi khổ sở. Cô có đầy đủ thức ăn và chín mươi chín căn phòng. Cô không bước vào căn phòng thứ một trăm. Bảy năm đã trôi qua và cô không hề gặp tai nạn gì.

Một hôm, người đàn bà da đen đến và hỏi cô gái vàng:

- Con có vào thử căn phòng thứ một trăm không?

Cô gái vàng trả lời:

- Không ạ!

- Con ngoan lắm. Con đã biết nghe lời khuyên của ta. Bảy năm nữa, ta sẽ quay lại đây. Nếu con giữ được lời hứa, thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Nếu con bước vào căn phòng thứ một trăm thì con sẽ phải chịu những hình phạt khủng khiếp hơn cả cái chết đấy!

Người đàn bà da đen nói xong liền đánh xe đi và bảy năm sau mới quay lại lâu đài. Bảy năm lần thứ hai trôi đi rất nhanh. Ngày cuối cùng của kỳ hạn, người đàn bà da đen sẽ quay lại, cô gái vàng rất sung sướng vì cô đã vâng lời bà ta. Cô tin rằng, cô sẽ được bà ta trọng thưởng. Bỗng nhiên, cô gái vàng nghe thấy tiếng nhạc du dương.

- Ai chơi nhạc hay vậy?

Cô gái ngạc nhiên kêu lên. Cọ đi về phía tiếng nhạc và đến cửa căn phòng thứ một trăm, trong phòng vọng ra tiếng nhạc quyến rũ. Cô gái vàng như mất hồn, thẫn thờ mở cửa căn phòng và bỗng nhiên giật mình, đứng sững lại ở ngưỡng cửa. Trong phòng có mười hai người đàn ông da đen đang ngồi quanh bàn và người đàn ông da đen thứ mười ba đứng phía sau cánh cửa.

- Con bé kia! Con bé kia! Mày đã làm cái gì thế? Ai cho mày vào căn phòng này? – Gã đàn ông da đen thứ mười ba quát lên.

Cô gái vàng khiếp đảm, đứng nép vào cánh cửa và sợ hãi hỏi lại:

- Trời ơi, cháu phải làm gì bây giờ?

Gã dđµn ông da đen thứ mười ba gào lên:

- Mày không được nói với bất kỳ ai về chuyện chúng ta ở đây! Nếu mày không giữ mồm, giữ miệng thì mày sẽ phải chịu những hình phạt cực kỳ khủng khiếp! Thôi cút đi! Cút đi! Mày chỉ có câm lặng mới chuộc lại tội lỗi này của mày!

Cô gái vàng kinh hoàng đóng cửa lại. Ngay lúc đó, cô nghe tiếng xe ngựa ngoài sân. Người đàn bà da đen bước vào. Bà ta như đã đoán được chuyện gì, liền hỏi cô gái:

- Con đã nhìn thấy gì ở trong căn phòng thứ một trăm?

Cô gái vàng im lặng lắc đầu.

- Được rồi, nếu mày không muốn nói thì từ nay trở đi, mày sẽ trở thành một kẻ câm. Mày chỉ được phép nói với ta mà thôi!

Người đàn bà da đen đùng đùng nổi giận và đuổi cô gái vàng ra khỏi lâu đài.

Cô gái vàng ra đi mà chẳng biết mình đi đâu. Cô cứ bước đi hoài, cho đến bãi cỏ xanh. Cô ngồi xuống, nức nở khóc và thiếp đi vì mỏi mệt. Lúc ấy, nhà vua trẻ đang đi săn gần bãi cỏ. Ngài trông thấy cô gái vàng xinh đẹp đang ngủ. Nhà vua đem lòng yêu cô gái. Mặc cho cô gái bị câm, nhà vua cứ đưa về lâu đài của mình và phong nàng làm hoàng hậu.

Cô gái vàng sống hạnh phúc trong lâu đài nhà vua. Chưa đến một năm sau, cô sinh được một cậu con trai xinh đẹp, có mái tóc vàng và ngôi sao cũng bằng vàng trên trán. Cả lâu đài đều vui mừng vì có hoàng tử xinh đẹp. Ngay đêm ấy, người đàn bà da đen lần đến giường hoàng hậu và đe doạ:

- Nếu mày không thú nhận là mày đã vào căn phòng thứ một trăm, thì ta sẽ giết chết đứa bé này!

Nghe người đàn bà da đen nói vậy, cô gái vàng hoảng sợ. Nhưng cô chỉ im lặng lắc đầu, vì cô còn nhớ rõ lo đe doạ của gã đàn ông thứ mười ba trong căn phòng thứ một trăm.

Người đàn bà da đen liền mang đứa bé ra bãi cỏ giết đi, bà ta lấy máu của đứa trẻ, bôi lên miệng cô gái vàng, rồi mang xác đứa bé biến mất. Sáng hôm sau, cả lâu đài hoảng sợ vì không tìm thấy hoàng tử nhỏ ở đâu. Mọi người thấy máu dính trên miệng hoàng hậu. "Có lẽ bà ta đã ăn thịt con chăng?", những người hầu cận thì thầm nhận xét với nhau và chẳng có ai to gan nói lên những mối nghe ngờ đó. Nhà vua cũng chẳng thanh minh gì đựơc.

Năm sau, hoàng hậu sinh hạ một cô con gái có mái tóc vàng va có ngôi sao trên trán. Cả lâu đài vui mừng, nhưng ngay sau đó,ai cũng lo mất công chúa nhỏ. Nhà vua sai lính gác cẩn mật phòng hoàng hậu. Nhưng đều phí công. Đêm ấy, người đàn bà da đen lại xuát hiện. Bà ta doạ nạt hoàng hậu:

- Nếu mày không là mày đã vào căn phòng thứ một trăm, thì tao sẽ giết con bé này!

Hoàng hậu dàn dụa nước mắt và lắc đầu. Người đàn bà da đen lìên mang đứa bé ra bãi cỏ giết đi, bà ta lấy máu của đứa trẻ, bôi lên miệng cô gái vàng, rồi mang xác đứa bé biến mất. Sáng hôm sau, cả lâu đài khiếp sợ. Tin đồn hoàng hậu ăn thịt con đến tai nhà vua. Nhà vua đùng đùng nổi giận và ra lệnh trị tội cô gái vàng. Nhà vua sai người đốt cháy cô gái ngoài thành phố. Cô gái vàng chỉ biết khóc. Cô bị câm nên không nói được nỗi oan ức của mình. Chẳng có ai thương hại hoàng hậu, dù hoàng hậu khóc lóc.

Tên đao phủ dẫn cô gái ra chỗ hành quyết, thì người đàn bà da đen xúât hiện. Bà ta nói với cô gái:

- Hãy thú nhận là đã vào căn phòng thứ một trăm, nếu mày còn chối thì mày phải chịu tội chết!

Cô gái vàng vẫn trơ trơ như đá, cô chỉ lắc đầu để trả lời người đàn bà da đen.

Tên đao phủ trói cô gái vào cột và chất củi đốt. Khi ngọn lửa bùng cháy dưới chân cô gái vàng, thì người đàn bà da đen bỗng nhiên quát to:

- Dập tắt lửa đi! Dập tắt lửa đi!

Nghe thấy tiếng quát, mọi người kinh ngạc. Tên đao phủ dập tắt ngọn lửa và cởi trói cho cô gái vàng. Người đàn bà da đen mang hai đứa trẻ có mái tóc vàng và có ngôi sao bằng vàng trên trán ra. Bà trao hai đứa trẻ cho cô gái vàng và nói:

- Ta nguyên là một vị tiên nữ. Vì ta đã phạm tội, nên thượng đế đày xuống trần. Ta phải tìm ra một cô gái biết im lặng trong nhiều năm, dù cô ta có bị giết, vẫn không nói một lời. Ta đã tìm ra được con. Con xứng đáng là người cùng ta trải qua nhiều thử thách dưới trần gian. Hai đứa con của con vẫn còn sống. Hôm nay ta trao lại cho con. Đó là hạnh phúc của con và cả của ta nữa, vì con đã biết im lặng. Con đã giải thoát cho các con của con và cho ta.

Nói xong người đàn bà da đen đánh xe đi thẳng.

Nhà vua kinh ngạc, không dám tin vào mắt mình. Cô gái vàng vội kể lại cho nhà vua nghe câu chuyện. Nghe xong, nhà vua cho mời hai vợ chồng người thợ rèn và các anh, các chị cô gái vàng về lâu đài. Từ đó, họ chung sống với nhau đến trọn đời.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 13:17  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Sự tích cái yên ngựa




(Truyện cổ Trung Quốc)


Ngày xưa có một vị quan tên là Hồ Lưu rất hung ác. Năm 62 tuổi, ông ta chết. Diêm chúa lật sổ ra thấy tội trạng còn quá nặng nên bắt buộc ông ta đầu thai làm con ngựa. Ông Hồ Lưu (tức là con ngựa), lớn kên bị tên nài bạc đãi, thúc đầu gối vào hông, cỡi không cần yên. Hồ Lưu buồn bã quá, nhịn đói không ăn cỏ, ba bốn ngày sau thì chết.

Diêm chúa nổi giận:

- Thằng này trốn tội! Phải đền tôi cho đủ mới được trở về đây. Tự vận như thế là ăn gian!

Bèn cho Hồ Lưu hoá thai lần nữa, đầu thai thành con chó. Hồ Lưu tủi phận nhưng không dám tự vận như trước. Anh ta nghĩ ra một kế: "Mình cứ cắn ông chủ mình, ông chủ nổi quạu, sẽ đập mình chết". Hồ Lưu thi hành như ý định. Chủ nhà ngỡ là chó điên nên đập chết. Diêm chúa hay được, bèn sai quỷ sứ đánh vong hồn Hồ Lưu 50 hèo rồi phán:

- Mày phải đầu thai trở lại. Tội mày chưa trả hết mà mày đòi trốn hoài. Lần này, phải đầu thai trở lại làm con rắn.

Hồ Lưu liền bị nhốt trong ngục, bò tới bò lui. Sau rốt anh ta khoét hang vựơt ngục. Biết rằng tự tử hay cắn người đều là trọng tội, anh ta bèn giả bộ bò ra ngoài, nằm giữa đường mà ngủ. Tình chờ một chiếc xe ngựa chạy qua, cán rắn đứt làm đôi.

Diêm chúa phán:

- Bấy lâu nay mi cực khổ nhìêu quá rồi. Ta không nỡ hành tội nữa. Vậy thì mi đựơc phép đầu thai về dương thế để làm quan mà cai trị dân, lấy tên là Lưu Công.

Lưu Công lớn lên, học hành rất giỏi, đậu thủ khoa. Ông thường răn các người tuỳ thuộc, muốn cưỡi ngựa thì phải mang yên, mang nệm. Ý của ông là khuyên răn các người bên dưới nên tử tế đối với dân, đừng hà lạm quyền hành thúc ép mà đau khổ dân lành.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 13:18  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Truyền thuyết về trái Đào





(Truyện cổ Trung Quốc)




Lâu lắm rồi ở miền Bắc Trung Quốc nọ có một làng nhỏ nằm heo hút trên một ngọn núi cao chỉ vài gia đình sống ở đó.Trong làng ấy có một chàng trai dũng cảm với trái tim tấm lòng nhân hậu tên là Đào tử. Mọi nguời trong làng đều rất yêu mến chàng. Cũng ở trong làng ấy có một cô gái tên là Tiểu Mỹ.

Tiểu Mỹ xinh đẹp, thông minh lại đàn hay hát giỏi. Đào Tử coi Tiểu Mỹ như em gái mình. Họ hay cùng nhau nói chuyện và ca hát, dần dần họ yêu nhau từ lúc nào cũng không hay. Tiểu Mỹ và Đào tử yêu nhau lắm nhưng khổ một nỗi Tiểu Mỹ lại là một nàng tiên và chẳng bao lâu nữa sẽ phải về trời. Do Tiểu Mỹ rất yêu Đào Tử nàng không muốn làm chàng đau khổ cho nên một hôm Tiểu Mỹ lạnh lùng nói với Đào Tử rằng:Thực ra người mà em yêu phải là người cực kỳ dũng cảm, nhưng anh lại không khống chế nổi tình cảm của em điều này cho thấy anh không phải là người dũng cảm nhất. Khi nào anh trở nên dũng cảm nhất em sẽ quay lai với anh.Thế rồi từ đó họ không gặp nhau nữa.

Lời nói của Tiểu Mỹ in sâu vào trong lòng Đào Tử.Chàng ở vào thế tiến thoái luỡng nan: Yêu Tiểu Mỹ nhưng nàng không yêu, cố quên nàng đi nhưng không quên nổi. Trái tim chàng lúc đập rộn ràng lúc thì băng giá. Khuôn mặt chàng đã mất dần màu máu, trái tim chàng đã bị cứng lại. Một hôm họ tình cờ gặp nhau Đào Tử nói cho Tiểu Mỹ nỗi đau khổ của mình, chàng nói với Tiểu Mỹ: '"Trái tim anh đã băng giá và khô cứng. Anh rất yêu em, anh yêu em bao nhiêu thì tim cứng bấy nhiêu. Anh không tin là em không yêu anh, anh chỉ muốn xem xem, trái tim em có phải vì Tình yêu mà cũng băng giá. "Sống trên cõi đời này không còn ý nghĩa gì đối với đôi trai gái này cho nên họ cùng móc trái tim của mình ra cho nhau xem và cùng chết. Nguời dân cùng làng vì cảm động trước mối tình của đôi trai gái cho nên đã chôn hai người cùng với nhau. Cùng đêm đó có một trận mưa lớn suốt đêm, dân làng nghe thấy có tiếng nói chuyện ở ngoài đường cái nhưng chẳng ai dám ra xem là có chuyện gi? Thế rồi sáng hôm sau, trên ngôi mộ của đôi trai gái mọc lêm một cái cây nhỏ, trên cây mọc đầy những bông hoa nhỏ màu hồng nhạt. Hoá ra là xác của Đào Tử mọc thành cái cây .Dân làng vì để tưởng nhớ tới Đào Tử chàng trai dũng cảm đã lấy tên chàng đặt cho cái cây ấy. Còn về Tiểu Mỹ,nàng đã hoá thành nhũng bông hoa màu hồng ấy. Sau khi chết linh hồn của nàng bay về trời nhưng nàng vẫn còn lưu luyến với mối tình ở duới trần gian Vương mẫu nương nương cảm động trước tình cảm ấy đã phong cho nàng cái tên Đào hoa nương nương tượng trưng cho Tình yêu.

Hè năm đó, trên cái cây ấy kết đày những quả có có hình trái tim gắn liền với nhau.Những người biết câu chuyện này thường sợ cây Đào đau cho nên họ đợi cho quả Đào có màu đỏ và trở nên mềm thì mới ăn. Kỳ thứ trong quả Đào còn có một cái hạt cứng bảo vệ trái tim đã hoá đá. Từ năm đó trở đi nguời dân ở đây coi hoa Đào là loại hoa tượng trưng cho Tình yêu, gỗ của cây Đào dùng làm bùa tránh tà.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 13:19  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Lâm Sanh Xuân Nương



Truyện cổ thế giới



Ngày xưa, quan tổng đốc Lâm Phụng huyện Châu Thai nổi tiếng hìên đức bao nhiêu thì phu nhân Lý Phi Nương mang tiếng độc ác bấy nhiêu.

Khi quan tổng đốc qua đời, phu nhân cưới nàng Xuân Nương cho con trai là Lâm Sanh. Nhưng phu nhân không cho Lâm Sanh và Xuân Nương chung chăn gối bởi lẽ bà xem Xuân Nương như kẻtôi đòi. Thương vợ, Lâm Sanh lén mẹ đi gặp Xuân Nương ở nhà sau để an ủi, thở than.

Xuân Nương về làm dâu ở nhà họ Lâm đã ba năm mà chẳng có tin về, làm cho vợ chồng Tiều lão thêm lo lắng. Hai ông bà lặn lội xuống Châu Thai thăm con. Thấy vợ chồng Tiều lão nghèo, phu nhân ra chiều khinh rẻ, tiếp đón lạnh nhạt. Lúc lâu phu nhân mới cho Lâm Sanh dẫn Xuân Nương ra chào cha mẹ. Oâng bà Tiều lão sững sờ, chết lặng khi thấy Xuân Nương tìêu tuỵ, quần áo tả tơi. Tiều lão đòi bắt con về, nhưng phu nhân nào có chịu…

Không thể nào bắt Xuân Nương về được, vợ chồng Tiều lão lủi thủi ra về mà lòng già tan nát. Phu nhân tức giận quát hỏi:

- Xuân Nương, mày đã nói hành nói tỏi gì với cha mẹ mày mà ổng bả làm dữ đòi dẫn mày về?

- Xin mẹ tha thứ cho con, con đâu có dám.

- Con kia, chớ có qua mặt bà, gia nhân đánh nó cho ta.

Gia nhân nào dám cãi, đánh cho đến khi phu nhân hả giận thì Xuân Nương thịt nát xương tan. Trở về nhà, vợ chồng Tiều laõ buồn bã, thương thân con trẻ gặp bà mẹ chồng độc ác. Bỗng một đêm đang ngủ, vợ chồng Tiều lão thấy Xuân Nương hiện về báo mộng: "Cha mẹ ơi! Mẹ chồng con cho gia nhân đánh con tới chết rồi vùi xác con ngoài bờ ruộng. Con chỉ về thăm cha mẹ trong đêm daì giá lạnh mà thôi!".

Oâng bà Tiều lão chỉ kịp kêu lên: "Xuân Nương con!..." rồi ngồi bật dậy, ông bà nhìn nhau khóc ròng.

Thương con bao nhiêu, càng giận phu nhân bấy nhiêu, con người sao quá hiểm sâu, độc ác. Vợ chồng Tiều lão làm cáo trạng lên huyện đường. Quan huyện đã nhận hối lộ của phu nhân nên xử ép vợ chồng Tiều lão:

- Con gái ông bà lâm bệnh bất kỳ tử mà chết, chứ phu nhân họ Lâm thương con dâu không hết, giết chóc làm chi, ông bà nên bỏ qua đi.

Không kêu oan đựơc ở cửa huyện đường, ông bà Tiều lão cương quyết đòi cáo trạng lên tiếp cửa trên…

Lòng thương con thúc đẩy ông bà Tiều lão vựơt qua vạn dặm đầy nguy hỉêm, thẳng tới Trường An dâng cáo trạng lên vua. Xem xong, đức vua truyền cho toà tam pháp công đồng xét xử. Đức vua truyền gọi Lâm Sanh, buộc chàng khai sự thật. Phu nhân tội ác rõ ràng, đức vua quyền đem ra xử trảm để răn kẻ ác tâm.

Động lòng hiếu tử, Lâm Sanh lìêu chết xông vào pháp trường cõng mẹ chạy thoát thân. Kiệt sức, Lâm Sanh té quỵ. Đốc tướng đem binh đuổi theo bắt đựơc, giải về trìêu.

Đức vua nổi trận lôi đình, truyền đem phu nhân chém ngay, còn Lâm Sanh giam vào ngục tối chờ ngày xét xử. Vào một đêm trăng sáng, công chúa nhàn rỗi ra dạo vừơn hoa, bỗng thấy hào quang sáng rực từ ngục tối. Công chúa bàng hoàng kinh ngạc, cùng thế nữ đến tận nôi dò xét, thấy một trang thư sinh khôi ngô tuấn tú… Vào triều, công chúa tâu lại với phụ vương những điều kỳ lạ mới thấy. Nhà vua truyền quân hầu vào ngục đem Lâm Sanh tới hầu. Muốn thử tài thơ văn của Lâm Sanh, đức vua liền ra đề. Lâm Sanh nhận lấy tờ hoa tiên, đặt bút thảo thành chương đem dâng lên. Xem xong đức vua khen ngợi vô cùng.

Đức vua ra lệnh ân xá và cho Lâm Sanh đựơc ứng thí. Lâm Sanh đỗ trạng nguyên đựơc gả công chúa. Được hiển đạt, Lâm Sanh về Châu Thai thăm nhà. Chàng thăm cố hương chưa đựơc bao lâu thì có Khâm sai đến triệu về kinh. Lúc qua trứơc mộ Xuân Nương, Lâm Sanh liền cúng hoa quả và khấn vái. Khâm sai lại giục giã lên đường, chàng đành gạt lệ ra đi.

Lòng chung thuỷ của Lâm Sanh động đến trời cao. Xuân Nương nhập về với xác ở miễu đường chờ đợi sẽ được đoàn tụ với mẹ cha.

Một hôm vợ chồng Tiều lão định xuống Trường An thăm Lâm Sanh. Đi một đoạn bỗng gặp một cô gái:

- Lạ quá, tôi thấy con nhỏ này sao giống tạc con Xuân Nương đó ông?

Ông cũng không tin, cho người giống con chớ con chết rồi làm sao sống lại đựơc. Nhưng Xuân Nương nhận ra cha mẹ, ôm lấy hai người mừng mừng tủi tủi.

Vợ chồng Tiều lão xuống tới Trường An, liền đưa Xuân Nương vào dinh. Tiều lão thử Lâm Sanh:

- Liễu Hoa em ruột Xuân Nương, nay chị đã qua đời xin thế cô em.

Lâm Sanh nói:

- Thưa nhạc phụ, một lời đã hẹn với Xuân Nương thì không khi nào con dám lỗi hẹn, để tủi lòng người đã khuất. Đây chính là vợ con.

Tiều lão khen thầm Lâm Sanh quả là kẻ trượng phu son sắt một lòng. Xuân Nương cảm động kể hết sự tình. Hôm sau, Lâm Sanh đưa Xuân Nương vào bệ kiến đức vua tâu hết sự tình. Vua khuyên Lâm Sanh xử sao cho vẹn mối tình với Xuân Nương và công chúa. Nghĩ mình già yếu, đức vua chọn lấy ngày lành, truyền ngôi cho quốc trạng Lâm Sanh.

Lâm Sanh phong cho Xuân Nương và công chúa là hoàng hậu ngang nhau.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 13:21  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Nhà họ Đường đả hổ



(Cổ tích Trung Quốc)




Xưa kia, tỉnh An Huy có một thôn ở cạnh một hòn núi nhỏ, dân cư ở đây chừng trăm nóc nhà, nhà nhà sống về nghề nông, đốn củi; họ ăn no mặc ấm, cuộc sống kể ra cũng thảnh thơi. Chẳng dè năm nọ có một con hổ dữ xuật hiện, cứ năm ba ngày bao nhiêu người và vật phải chết dưới móng vuốt của nó. Từ đó, người đốn củi sợ lên núi, người làm ruộng sợ ra cửa, nhà nhà hoảng loạn đóng cửa ở bên trong.

Nhưng ngày rộng tháng dài, cứ ở mãi trong nhà cũng không thể được. Và nếu muốn có cuộc sống thảnh thơi như cũ thì chỉ còn cach phải giết con hổ dữ này. Nghe đồn có nhà họ Đường nổi tiếng giết hổ, thôn làng bèn đề cử mấy người đại diện đi mời thỉnh.

Người đánh hổ quả thực đã đến, ấy là hai cha con một già một trẻ. Cụ già thì đầu bạc phơ, lưng đã còng không có vẻ chi mạnh khỏe, còn người trẻ thì ý chừng chưa đầy mười tuổi, dáng vẻ nhút nhát thẹn thò. Bấy giờ, mọi người đều chẳng tin: Người thế này sao có thể đánh hổ, hay là họ tình nguyện đến đây để cho hổ nuốt? Song cũng không có cách chi, trước hết chỉ còn biết mời họ ở lại vậy thôi.

Sáng sớm hôm sau, cụ già cần có hai người khỏe mạnh gan dạ, một là dẫn đường, hai là dụ hổ. Mọi người tiễn họ đến ven thôn, mắt nhìn theo bốn người đi về phía trước mà trong lòng ai nấy đều lo cho ông cụ và đứa trẻ.

Bốn người đi được một đỗi, đường núi bắt đầu quanh co rậm rạp. Hai người đứng lại nói với ông cụ:

- Không dối chi lão anh hùng, con hổ ấy thường hay xuất hiện ở đây, chúng tội...

Cụ già thấy họ sợ sêt bèn mỉm cười, ông chỉ một hòn đá to, nói:

- Hai anh nấp phía dưới hòn đá ấy mà đợi, chúng tôi giết hổ xong sẽ gọi các anh.

Nói đoạn cụ dẫn đứa trẻ tiến vô phía núi sâu rừng thẩm.

Cụ già rẽ qua vòng lại quan sát trên mặt đất, rồi đi tiếp . Ông ngước đầu nhìn bốn bề, nói:

- Này con, con súc sanh ấy còn đang ngủ! Con gọi nó dậy đi.

Đứa bé chạy ra mấy bước, khom người, hay tay bưng miệng nhắm về phía rừng, cất tiếng gầm như hổ kêu "ú ùm ú ùm".

Cụ già chậm rãi xăn tay áo, từ trong chiếc túi đeo lưng, ông lấy ra một chiếc búa, xem xét lại lưỡi búa, đoạn thủng thỉnh bước đi. Chính lúc ấy, một luồng gió nổi lên, lá cây sao động, từ trong rừng phóng vút ra một con mãnh hổ. Cụ già liền đứng lại, tay mặt ông giơ chiếc búa, hai mắt đâm đâm nhìn con hổ ấy. Đứa trẻ thì sớm đã lách tới sau lưng ông. Mãnh hổ thấy có người, hai chân trước nó chồm lên, gầm một tiếng lớn và liền nhắm cụ già vồ tới. Cụ già cầm lưỡi búa, hơi rạp người, cánh tay mặt khẽ đưa ra và lách nghiêng, chỉ nghe "xoẹt" một tiếng, da bụng con mãnh hổ đã rách một đường, lại "bốp" một tiếng tiếp theo, con mãnh hổ đã nằm ngay đơ phía sau lưng ông cách năm sáu bước, máu đỏ phun đầy trên mặt đất. Cụ già chậm rãi lau sạch máu lưỡi búa, nhìn lại, đoạn giắt lưỡi búa vào túi đeo sau lưng. Ông bước tới dòm con hổ và bảo đứa con:

- Này, con hãy đi kêu họ tới khiêng đem về.

Đứa trẻ chạy đến chỗ hòn đá lớn, dáo dác tìm kiếm, nhưng chẳng thấy một ai. Chính trong lúc lạ lùng ấy, chợt nghe trong lùm cỏ có tiếng xào xạc, một chiếc đầu đầy bùn sình ló ra hỏi:

- Người bạn nhỏ, sao rồi ?

Đứa bé thấy mà không nhịn cười được, nói:

- Chú, chú ra khiêng hổ về đi !

Theo đó, một chiếc đầu khác cũng ló ra, rước lời hỏi:

-Thiệt sao ?

Đứa bé học chuyện lại, hai người bạnh miệng cười toe toét và theo cậu tới chổ đả hổ. Thoạt thấy con hổ chết nằm sóng soài to gần bằng con trâu nhỏ, hai người bất giác lè lưỡi, rúm người không dám bước tới. Lại nhìn kỹ con hổ ấy, thì ra bụng nó đã bị xẻ một đường dài, bây giờ vẫn còn ra máu.

Tin đã hổ chấn động cả thôn, già trẻ đều tới xem hổ và anh hùnh đả hổ. Mọi người hết nhìn con hổ lại nhìn cụ già và đứa trẻ đả hổ, vừa cảm kích vừa ngạc nhiên lại vừa mừng, ngạc nhiên là tại sao cụ già và đứa trẻ thế này mà có thể giết chết con hổ, mừng là đã trừ được hổ dữ, từ đây có thể sống cuộc đời yên vui.

Mọi người đều cảm kích cụ già và đứa trẻ vô cùng. Trở về thôn, họ đem tặng lễ vật rất nhiều, một mặt hỏi cách giết hổ. Cụ già nhắp một hớp trà, cười mà nói rằng:

- Nhà họ Đường đả hổ đã ba đời. Ban đầu, ông nội tôi lấy vợ không lâu, một hôm ông lên núi đốn củi, rồi bị hổ tha mất, bà nội tôi khóc đến chết đi sống lại, may là lúc đó bà đang mang thai, và không lâu bà sinh ra cha tôi. Khi cha tôi vừa biết nói, bà tôi sa lệ thuật lại tai họa về hổ cho cha tôi nghe, và khuyên cha tôi nên hạ quyết tâm vì mọi người trừ hại. Cha tôi lớn lên, người khổ công nghiên cứu cách giết hổ. Người đi thăm hỏi khắp nơi, ngày đêm dụng tâm nghiên cứu, cuối cùng đã nghĩ ra pháp môn chính mà tôi hiện đang dùng.

Nói đến đây ông cụ lấy từ trong túi ra cây búa. Búa này cán dài một thước rưỡi, lưỡi hình bầu dục, sắc bén vô cùng. Cụ già giơ cánh tay phải lên, nói tiếp:

- Cha tôi trước hết luyện cách tay, sau đó luyện mắt, luyện như vậy ròng rã trên mười năm, Không môt ngày biếng trể. Thế rồi mới bắt đầu ra tay giết hổ. Liên tiếp người giết chết ba con hổ lớn ở vùng phụ cận. Sau đó người lại đến khắp vùng núi sâu, khiến cho hổ trong vùng trăm dặm không còn dám héo lánh. Từ đó tiếng tâm cha tôi nổi như cồn, và rồi nhiều địa phương phái người tới mời, nhưng cha tôi chưa hề từ chối. Lúc cha tôi sấp mất, người căn dặn chúng tôi:

- Phải truyền bản lĩnh này lại cho đời sau. Ai không biết đã hổ, không phải là con cháu họ Đường!

Câu nói này mãi mãi được truyền, cho nên nhà họ Đường chúng tôi không ai là không biết đả hổ. Nhà họ Đường nổi danh chính là như thế.

Ông cụ kể xong, đứng lên nói:

- Các người tự do chọn mười người lực lưỡng, dùng dây kéo cánh tay tôi thử xem!

Quả thực có những thanh niên hiếu kỳ chạy đi tìm một sợi dây thừng to quấn lấy cánh tay ông cụ, và nhất tề dùng sức kéo nhưng cánh tay của ông cụ chẳng hề nhúc nhích.

Cụ già lại cười:

- Các người hãy dùng một bó chà quét qua lại trước mắt tôi xem, tôi chẳng hề nháy mắt.

Những thanh niên hiếu kỳ lại cầm bó chà tre quơ trước mắt ông cụ, có điều không đụng vào da mắt, chỉ thấy ánh mắt cụ loe lóe, tròng mắt theo bó chà quét qua quét lại mà chuyển động, không hề nháy.

Lại ở nán thêm một ngày, một già một trẻ từ biệt mọi người, họ không nhận lễ vật mà trở về nhà.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 13:22  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Hoa phụng tiên



Truyện cổ thế giới




Niềm vui duy nhất trong đời của bà thợ cày Mađara là cô con gái Rôta. Rôta quả là một cô gái hiếm thấy - nước da rám nắng, hay lam hay làm, tính tình xởi lởi. Mới sáng ra nàng đã gặt được gần nửa cánh đồng lúa, chiều đến, trên đường trở về, nàng luôn miệng ca hát.

Việc luôn chân luôn tay, vậy mà cô gái cứ như bông hoa bừng nở, có dễ kiếm khắp làng cũng không có bông hoa nào sánh được với nàng. Chính người làm vườn của trang trại cũng rất thích được ngắm nghía rừng hoa của Rôta đang độ khoe sắc. Mặc dù tên điền chủ đã mang về nhà đủ loại hạt giống và cây non, nhưng loại hoa như của Rôta thì y lại không có. Vậy nàng đã kiếm đâu ra? Rôta vừa mỉm cười vừa đáp:

- Bầy chim non đã mang hạt giống từ miền xa lạ về cho tôi đấy. Tôi không nói dối ngài đâu.

Về mùa Xuân, khi đàn chim én bay đến sớm, hy vọng tìm nơi ấm áp trú ngụ, Rôta thường bắt chúng nhốt vào lồng, đưa vào trong nhà nuôi dưỡng, chăm bẵm và khi mùa lạnh qua đi, nàng lại thả chúng về trời. Bầy chim thơ dại muốn đền đáp ơn huệ của nàng Rôta tốt bụng, song nàng chỉ mỉm cười, nói:

- Ta cần thật nhiều loại giống hoa của các miền xa lạ. Chim hãy mang về cho ta!

Bầy chim đã giữ lời hứa. Rôta lấy làm sung sướng được chia sẻ với chị em vì sự phong lưu của mình. Người thì nàng cung cấp hạt giống, kẻ thì nàng cho cây non. Nàng càng tỏ ra hào hiệp với mọi người bao nhiêu, hoa trong vườn nhà nàng càng đơm hương, khoe sắc rực rỡ bấy nhiêu. Duy chỉ có Kexta, người đàn bà ở bên cạnh là nàng không bao giờ cho một hạt giống nào, mặc dù bà ta có hỏi xin.

- Con ngặt nghèo với láng giềng gần như thế để làm gì? - Mẹ phàn nàn với Rôta, nhưng nàng lại đáp, giọng dứt khoát:

- Con sẽ không cho mụ rắn độc này dù chỉ là một bông hoa nhỏ.

Kexta không phải là rắn độc mà là chủ nuôi rắn. Ai cũng biết mụ ta thường nuôi đến bảy con rắn độc trong nhà và lần lượt cho chúng bú sữa của mình.

Một hôm, sau khi đã bú no, con rắn đầu tiên nói nhỏ vào tai mụ :

- Vì sao hoa của nhà Rôta lúc nào cũng bừng nở, còn hoa nhà bà thì không?

Kexta nổi cơn tam bành, dẫm nát hết vườn hoa của Rôta, thậm chí cả hàng rào cao bao quanh khu vườn mụ cũng phá đi.

Con rắn thứ hai ỉ eo :

- Nếu bà có nhiều hoa đẹp, bà có thể đem ra chợ bán, bà sẽ thu được cơ man nào là tiền!

"Ôi, tiền! Tiền! Ta sẽ tích góp được nhiều tiền!" Kexta như một kẻ điên khùng. Lúc ấy có một người lạ mặt đói rách ghé vào sân nhà mụ xin ăn, con rắn thứ ba xúi:

- Chớ có phung phí tiền của nhà mình, dù cho hắn chết ngay tại đây!

Người lạ mặt liền bỏ sang nhà khác xin ăn. Thế rồi con rắn thứ năm lại phun phì phì vào tai mụ những lời đường mật:

- Mẹ bà đã còng lưng vì bà rồi, vậy bà làm việc để làm gì? Tốt nhất là bà nên nằm khệnh với chiếc chăn bông, gối nhung kia mà nghỉ cho khoẻ.

Kexta nằm ườn ra giường. Con rắn thứ sáu lại khích bác bà:

- Láng giềng ở đây rất tốt bụng với nhau. Bà thử xúi họ cãi nhau xem sao.

Thế là Kexta vùng dậy, chạy ngay sang nhà ở Babenca vốn nhẹ dạ và hay ba toác, ruột để ngoài da.

- Này, Babenca, ta đã bắt quả tang chồng mi hay trèo qua cửa sổ sang nhà con Rôta đó.

Mới nghe nói thế, cái lưỡi của Babenca đã liến láu tứ bên. Ả xộc ngay sang nhà kẻ tình địch. Nhưng con rắn thứ bảy mới là đáng gờm nhất. Nó luôn luôn rủ rỉ bên tai Kexta:

- Phải bằng mọi cách quấy rối cuộc sống của con người. Làm sao cho cả ngày lẫn đêm họ không thể sống yên.

Và mụ Kexta đã nghĩ ra một quỷ kế. Mụ buộc con chó vào đầu một sợi dây ngắn và đặt cách con vật không xa lắm một đĩa thức ăn thơm phức. Con chó ban ngày thì sủa ông ổng, tối đến cứ rống lên thảm thiết khiến láng giềng không sao chịu nổi.

Bà chủ rắn là một con người như thế, Rôta không thể đem hoa cho mụ ta được. Còn Rôta, lẽ ra nàng đã lấy chồng, đã sinh con, đẻ cái và được hưởng một cuộc đời hạnh phúc, nếu không có đợt săn lùng phù thuỷ do đám chức sắc trong vùng dấy lên. Sự cố này như một làn sóng rất xa, bắt đầu từ xứ sở mặt trời lặn và kết thúc ở nơi mặt trời mọc. Lũ sai nha trong làng Rôta đem chiếu chỉ của quan trên về lập danh sách những người bị coi là phù thủy. Nhưng phù thủy ở đâu? Đó là câu hỏi làm lũ sai nha phải đau đầu. Chúng bèn treo giải thưởng lớn cho người nào có công phát giác phù thủy.

Lập tức, bảy con rắn độc đồng thanh mách Kexta:

- Thế là bà có dịp trả thù con Rôta nanh nọc rồi đó. Bà hãy đến gặp các quan và tâu rằng chính nó là phù thủy. Bà còn được thưởng tiền nữa đấy.

Bà chủ rắn chỉ chờ có thế. Mụ te tái chạy đến gặp các vị chức sắc và không ngớt lời vu cáo Rôta:

- Cớ sao hoa vườn nhà nó lại nở nhiều và tươi tốt như vậy? Nhờ phép tà đấy! Vì sao lũ chim lại giúp nó? Có phép tà đấy! Vì sao lúc nào nó cũng hát với hỏng?

Các vị chức sắc cả mừng vì đã tìm được phù thủy, chúng bất chấp cả lệ làng, chẳng tin bất kỳ một lời nói trung thực nào, chỉ tin lời mụ chủ rắn. Rôta bị chúng đem thiêu đốt trên giàn lửa. Sau đó chúng tâu lên triều đình rằng an ninh ở làng quê đã trở lại bình thường.

Mùa xuân tới, bầy chim từ khắp các miền xa xôi bay tới đậu trên cửa sổ nhà Rôta cùng với rất nhiều loại giống hoa. Bầy chim rất đỗi kinh ngạc khi thấy một bà lão lưng còng ra mở cửa sổ chứ không phải là Rôta.

Mađara, mẹ của Rôta, đã đem những hạt giống trồng vào một chậu hoa. Chẳng bao lâu người ta thấy có những bông hoa đỏ như lửa mọc lên.

- Những bông hoa đáng yêu của ta! Các người khác nào cặp má hồng hào của Rôta! Các ngươi sẽ là phương thuốc thần hiệu giúp ta trị vết thương nơi trái tim.

Từ đó, hễ có người nào bị nỗi cay đắng dày vò, bà mẹ Rôta lại đem giống dầu thơm đó phân phát cho họ. Chẳng bao lâu trên khắp các cửa sổ các gia đình nghèo đều nở óng ánh những bông hoa đỏ tươi - đấy chính là Hoa Phụng Tiên.



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  

Re: Truyện cổ tích :)
Old 17-06-2009, 13:24  

V.I.P
 
Join Date: 14-08-2008
Posts: 1.714
KL$ (TOP! 7): 9.386
Awarded 74 time(s)
Sent 342 thank(s)
Received 245 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A15 (2007-2010)
Location: Neverland

Sự tích hoa phượng



Truyện cổ thế giới




Ngày xưa, xưa lắm, ở một vùng đất đồi kia, có một ông thầy dạy võ nổi tiếng về tài đánh kiếm. Vợ ông chết sớm, ông thương vợ, không lấy ai nữa nên ông không có con. Ông đi xin năm người con trai mồ côi ở trong vùng về làm con nuôi. Ngoài những giờ luyện võ, ông lại cho năm người đi học chữ, vì ông muốn năm người cùng giỏi võ, giỏi văn.

Tuổi năm người con xấp xỉ ngang nhau. Năm ấy, họ chỉ mới mười ba, mười bốn... Người nào học cũng khá và tài múa kiếm thì nổi tiếng khắp vùng. Ai cũng dễ nhận được họ vì ông sắm cho năm người năm bộ quần áo màu đỏ, để mặc ra đường. Thương bố nuôi nên năm người con rất biết nhường nhịn nhau và yêu quý mọi người trong làng... Năm ấy trong nước có loạn. Giặc ngoài kéo vào. Nhà cháy, người chết. Tiếng kêu khóc và lòng oán giận cứ lan dần, lớn dần. Đâu cũng đồn tên tướng giặc có sức khỏe kỳ lạ. Chỉ cần đạp nhẹ một cái cũng làm bật gốc được một thân cây to. Hắn lại sử dụng một cây thương dài và nặng, đâm chết từng xâu người một cách dễ dàng. Mọi người còn đồn thêm rằng hắn sở dĩ khỏe như vậy là vì hắn thích ăn thịt sống và đặc biệt hơn nữa là chỉ thích ăn toàn xôi gấc chứ không thích ăn cơm, mỗi lần hắn ăn hàng chục cân thịt cùng với một nong xôi gấc lớn. Người thầy dạy võ ở vùng đất đồi nọ định xin vua đi đánh giặc thì ngã ra ốm. Tay chân ông bị co quắp cả lại. Cụ lang giỏi nhất vùng đến xem bệnh và chỉ biết là ông uống phải thuốc độc. Ai cũng nghi tên tướng giặc đã ngầm cho những kẻ chân tay của hắn đi tìm giết trước những người tài giỏi trong nước. Người thầy dạy võ vừa uống thuốc, vừa ngày đêm ra sức tập luyện để tay chân mình lại cử động được như xưa. Một buổi sáng, tên tướng giặc bất thình lình phóng ngựa, dẫn quân lính của hắn kéo ập vào làng.

Hắn thấy ông thầy dạy võ đang lấy chân đạp vào một gốc cây sung to. Cây sung lúc đầu bị rung khe khẽ, rồi mỗi lúc rung một mạnh hơn. Sau đó, ông nhấc một cái cối đá to đưa lên, đưa xuống, vẻ còn mệt nhọc. Tên tướng giặc cười phá lên rồi xuống ngựa giơ chân đạp nhẹ vào thân cây sung. Thế là cây sung bị gãy ngang và ào ào đổ xuống. Hắn lại nhẹ nhàng đưa một tay tóm lấy cái cối đá ném vứt đi, như ta ném một hòn gạch con và cho rơi ùm xuống cái ao lớn gần đấy. Hắn gọi mấy tên quân đến trói chặt ông thầy dạy võ lại rồi bảo:

-Tao nghe mày muốn đi đánh tao phải không? Bây giờ thì mạng mày nằm trong tay tao rồi! Muốn sống thì hãy giết một con bò tơ, lọc năm mươi cân thịt ngon nhất, nấu một nong xôi gấc rồi mang đến chỗ ta đóng quân ở trên ngọn đồi giữa làng. Phải đội trên đầu mà đi chứ không được gánh. Đi luôn một mạch, không được dừng lại hay đặt xuống nghỉ. Đội thịt đến trước! Đội xôi đến sau!

Nói xong hắn ra lệnh cởi trói cho ông. người thầy dạy võ giận tím ruột, tím gan nhưng chẳng nói gì. Lúc ấy năm người con đang đi vắng, họ phải đi học chữ xa làng và lại sắp đến mùa thi. Không ai dám rời cái bút cái nghiên. Nhưng vừa nghe tin giặc kéo đến làng, họ lập tức đeo gươm vào người mà xin thầy cho về. Về đến nhà, nghe bố kể chuyện lại, năm người con nổi giận muốn chạy đi tìm tên tướng giặc hung ác để giết ngay. Người bố liền khuyên:

-Không được! Lúc nào quân lính của hắn cũng vây quanh, khó mà đến gần. Ngọn thương của hắn lại có thể đâm chết người từ rất xa. Các con cứ bình tĩnh, ta đã có cách khử nó! Người cha đi vay tiền mua một con bò tơ, mổ thịt rồi lọc lấy năm mươi cân thịt ngon nhất để vào một cái nia to. Ông lại đi vay ba gánh nếp trắng, đi xin ba chục quả gấc đỏ, nấu một chục nồi xôi thật dẻo. Ông đội nia thịt bò tơ đến trước. Chân ông còn đau, năm mươi cân thịt đội trên đầu không phải là nhẹ. Ông đội nia đi, mồ hôi vã ra đầy trán. Tên tướng giặc thấy ông đội thịt đến, mồm cứ nuốt nước bọt ừng ực. Hết nuốt nước bọt ừng ực, hắn lại khoái trá cười to. Còn người đội thịt thì bấm ruột chịu đựng và nghĩ thầm: "Cho mày cứ cười rồi mày sẽ biết..." Tên tướng giặc cười nhận thịt xong quát to lên và giục:

-Còn nong xôi nữa, mày về đội đến đây ngay! Người thày dạy võ lại về đội nong xôi đến. Nong xôi to và nặng hơn nia thịt nhiều. Nhưng xôi nấu ngon và nhìn đẹp quá. Ông đội nong xôi đi đến đâu, ở đó cứ thơm lừng. Mới đi được nửa đường, mồ hôi ông đã vã ra đầy mặt, đầy người. Đôi chân ông mỗi lúc một yếu, cứ run lẩy bẩy. Cái cổ cứ như muốn gãy gập lại. ông vẫn bặm môi, cắn răng và bắt đầu leo lên đồi. Tuy mệt lử nhưng đôi mắt ông sáng quắc và lòng ông rất vui. Ông tự nhủ: "Gắng lên! Chỉ cần một lúc nữa, một lúc nữa..." Tên tướng giặc ngồi trên cao theo dõi, vừa hả dạ, vừa lo lắng. Hắn nghĩ: "Thằng này không bị thuốc độc của ta thì khó mà trị được nó. Mà ngay bây giờ, hắn vẫn là một tay đáng sợ". Cái nong xôi gấc to lớn, thơm lừng vẫn lù lù tiến lên đồi. Mặt người đội xôi tái hẳn lại. Chỉ có đôi mắt. Đôi mắt vẫn sáng quắc. Nong xôi có lúc lảo đảo, ngả nghiêng, nhưng liền đó lại gượng lại, rồi nhích dần lên. Tên tướng giặc vội giật lấy thanh gươm của tên lính hầu rồi đứng phắt dậy, phóng gươm đi. Đường gươm sáng rực lên như một tia chớp, cắm vào bụng người thầy dạy võ làm ông chực gục xuống. Nhưng ông đã gượng đứng thẳng lên và đưa tay rút lưỡi gươm ra, phóng lại vào ngực kẻ thù. Tên giặc tránh được.

Bỗng từ trong nong xôi, năm người con nằm quây tròn được xôi phủ kín, đã vung kiếm nhảy ra và như năm làn chớp đâm phập cả vào ngực tên giặc ác. Tên tướng giặc không chống đỡ kịp, rú lên một tiếng rung cả ngọn đồi rồi ngã vật xuống. Thấy tướng đã chết, bọn lính giặc hoảng quá, kéo nhau chạy bán sống bán chết. Dẹp giặc xong, năm người con trai trở về ôm lấy xác người bố nuôi khóc vật vã mấy ngày liền. Cả làng cùng năm người con lo chuyện chôn cất rất chu đáo. Dân làng mỗi người một nắm đất đắp cho ngôi mộ ông thày cao lên. Thương bố nuôi, năm người con lại trồng quanh khu mộ năm gốc cây con, một giống cây có lá đẹp như thêu và có nhiều bóng mát. Hàng năm, đến ngày giỗ bố, họ lại đem áo đỏ ra mặc. Họ nhớ tiếc người thầy dạy võ đã có công giết giặc cứu dân. Đến lúc năm người lần lượt chết đi thì năm cái cây họ trồng quanh khu mộ người bố cũng lần lượt ra hoa màu đỏ thắm, đúng vào ngày giỗ người thầy dạy võ. Hoa đỏ như muốn nói với mọi người rằng: tuy chết đi, nhưng năm người con vẫn yêu thương người bố nuôi và hàng năm đến mùa giỗ bố, họ lại mặc áo đỏ để tưởng nhớ người đã khuất... Hoa có năm cánh đỏ rực và nhìn cả cây hoa nở rộ, người ta thấy giống như một mâm xôi gấc. Cái mâm xôi ngày nào người bố đã giấu năm người con trong đó và đội đi giết giặc. Đó là cây hoa Phượng ngày nay. Mỗi năm, khi mùa Hè đến, mùa thi đến, hoa Phượng lại nở đỏ đầy cây, đầy trời. Khi mùa Hè qua, trên khắp các cành cây, người ta lại thấy hiện ra những quả Phượng dài như những thanh gươm của năm người con trai ngày trước...



------------------------------
With a cup of coffee,a book and a pair of green shoes.
Trang is offline  
 

KLNetBB - Member of Kimlien Network
Copyright © 2002-2009 by dcuongtran
Skin designed by Kusanagi - Banner designed by FunkyJan
Powered by vBulletin® Version 3.6.8
Copyright ©2000 - 2016, Jelsoft Enterprises Ltd.