Old 20-02-2006, 10:51  

Manager
 
Join Date: 14-09-2005
Posts: 570
KL$ (TOP! 8): 8.632
Awarded 34 time(s)
Sent 54 thank(s)
Received 33 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A6 (2005-2008)
Location: My house

Post tặng chị snowy mừng lên chức ha ^^

************************************

<div align=center> William Sydney Porter (1862-1910) </div>



William Sydney Porter , người được biết đến nhiều hơn dưới bút danh O.Henry , là một bậc thầy trong việc tạo nên những kết thúc bất ngờ.Cốt truyện khó đoán ,mang tính châm bíêm, đôi khi có nhiều tình huống trùng hợp là phong cách truyện ngắn của ông.
William Sydney Porter sinh ngày 11 tháng 9 năm 1862 tại Greenboro, North Carolina,nơi ông trải qua thời thơ ấu của mình.Cha ông , Algernon Sidney Porter, là một thầy thuốc.Năm ông lên 3 tuổi mẹ ông qua đời , ông lớn lên dưới sự chăm sóc của bà nội và cô của mình. William rất ham đọc sách nhưng ông nghỉ học khi 15 tuổi , đi làm việc trong cửa hàng thuốc của người chú,nơi mà người dân Greenboro còn biết đến ông như một hoạ sĩ vẽ phác thảo và hoạt hình.Bằng cấp học vấn chính thức duy nhất mà ông có được là tại trường tiểu học của cô mình,Lina.
Năm 20 tuổi,William đến Texas làm việc trong trang trại của Richard M. Hall và lập gia đình.Chính tại đây ông có thêm nhiều hiểu biết về đời sống trang trại,những điều mà ông mô tả trong rất nhiều truyện ngắn của mình.Năm 1884, ông chuyển đến Austin.Trong khoảng 3 năm sau đó, ông sống chung với gia đình Joseph Harrell và làm nhiều nghề khác nhau.Trong khoảng thời gian này lần đầu tiên William dùng bút danh O.Henry.Đó là cụm từ mà ông hay dùng để gọi con mèo của mình, “ Oh , Henry ”.
Năm 1987 , William phụ trách công việc giao dịch ngân hàng cho General Land Office ,một công ty khi đó được lãnh đạo bởi người bạn cũ của gia đình mình , Richard M. Hall. Năm 1891, gia đình Richard M. Hall không còn làm việc ở General Land Office, ông cũng xin nghỉ việc ở đó và làm thủ quỹ cho First National Bank tại Austin. Sau vài năm, William rời khỏi ngân hàng và bắt đầu tham gia viết cho tờ The Rolling Stone,một tờ tuần báo trào phúng không thành công lắm. Năm 1895 ông chịu trách nhiệm một chuyên mục cho tờ Houston Daily Post.
Năm 1897 , ông bị buộc tội biển thủ công quỹ khi còn làm việc cho First National Bank. Để lại vợ và con gái ở Austin, ông chạy trốn đến New Orleans, sau đó đến Honduras nhưng ông sớm quay về khi hay tin vợ bệnh nặng. Ít lâu sau vợ ông mất.Năm 1898, ông bị bắt và chịu án 5 năm tù tại nhà tù Columbus, Ohio.
Trong tù , O.Henry bắt đầu viết truyện ngắn để kiếm tiền lo cho cô con gái của mình,Margaret. Tác phẩm đầu tiên , "Whistling Dick's Christmas Stocking", xuất hiện trên tạp chí McClure's năm 1989. Ông được ra tù năm 1901 sau khi ở tù 3 năm với hơn mười mấy truyện ngắn được sáng tác trong khoảng thời gian này.
O.Henry chuyển đến New York năm 1902 và từ tháng 12 năm 1903 đến tháng giêng năm 1906 ông viết mỗi tuần một truyện ngắn cho tờ báo New York World. Tuyển tập đầu tiên của O.Henry , Cabbages And Kings , ra đời năm 1904 . Tuyển tập thứ hai , The Four Million , ấn hành 2 năm sau đó gồm nhiều truyện ngắn nổi tiếng như "The Gift of the Magic" và "The Furnished Room". The Trimmed Lamp xuất hiện năm 1907 trong đó có "The Last Leaf" (truyện này chắc ai cũng bíêt).Trong năm 1907 , ông còn cho xuất bản tuyển tập The Heart Of The West , nói về cuộc sống ở những trang trại vùng Texas. Tuyển tập gồm các truyện như "The Reformation of Calliope" , "The Caballero's Way" và "The Hiding of Black Bill" . Tác phẩm nổi tiếng nhất của O.Henry có lẽ là loạt truyện "The Ransom of Red Chief", nằm trong tuyển tập Whirligigs xuất bản năm 1910. O.Henry ấn hành 10 tuyển tập với hơn 600 truyện ngắn trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình.
Những năm cuối đời của O.Henry chìm trong bóng tối bởi rượu , bệnh tật và các rắc rối tài chính. Năm 1907 ông cưới Sara Lindsay Coleman nhưng cuộc hôn nhân không hạnh phúc và họ chia tay ngay năm sau đó.
O.Henry mất ngày 5 tháng 6 năm 1910 vì bệnh xơ gan trong cảnh túng thiếu . Có thêm 3 tuyển tập được xuất bản sau khi ông qua đời , gồm : Sixes And Sevens (1911), Rolling Stones (1912) và Waifs And Strays (1917).
GemLeaf is offline  

Old 20-02-2006, 10:53  

Manager
 
Join Date: 14-09-2005
Posts: 570
KL$ (TOP! 8): 8.632
Awarded 34 time(s)
Sent 54 thank(s)
Received 33 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A6 (2005-2008)
Location: My house

Thích truyện TTHL này hơn cả "Chiếc lá cuối cùng"

***********************************

Tên Trộm Hoàn Lương - O. Henry


Viên cai ngục đến xưởng giày trong nhà giam, nơi Jimmy Valentine đang cần mẫn khâu mũi giày, để đưa anh ta lên phòng giám đốc. ở đấy, viên giám đốc nhà giam giao cho Jimmy tờ lệnh được tha vừa được ngài Thống đốc Tiểu bang phê chuẩn sáng nay. Jimmy thờ ơ cầm lấy tờ giấy, không nói gì. Anh bị kêu án bốn năm và đã ở đây được mười tháng. Đối với một người quen biết rộng như Jimmy thì cái án ấy chả bõ bèn gì, 'xoay' một cái là ra ngay !
Ông Giám đốc nhà giam nói :
- Thế nào, anh Valentine ? Sáng mai anh được ra rồi đấy. Hãy tự răn mình và tỏ ra là một người đàn ông chân chính. Tôi biết tự thâm tâm anh không phải là người xấu. Hãy thôi đừng trộm két sắt nữa và cố sống cho nghiêm chỉnh xem nào.
- Thưa ngài, tôi ư ? Tôi trộm két sắt ư ? - Jimmy trố mắt, ngạc nhiên hỏi.
Ông Giám đốc cười :
- Thôi đi ! Hừ, không với chả có. Thế cái vụ ở Springfield ai làm ? Tại sao anh phải vào đây ? Anh thì chạy tội là giỏi nhất !
Jimmy vẫn tỉnh bơ chối :
- Ái chà ! Không đâu, thưa ngài. Tôi chưa bao giờ đặt chân tới Springfield cả.
Ông Giám đốc nhà giam dễ dãi cười, quay sang bảo người cai ngục :
- Cronin, anh đưa cậu ta về phòng. Báo chuẩn bị đồ đạc phóng thích cho cậu ta và bảy giờ sáng mai đưa cậu ta đến đây. Valentine ! Hãy nhớ lời tôi nhé !
Bảy giờ mười lăm phút sáng hôm sau. Valentine đứng trước cửa nhà giam. Anh mặc một bộ complet cắt thật vụng về, chân mang đôi giày cứng nhắc thường phát cho những người tù được phóng thích.
Hồi nãy, viên thư ký nhà giam đưa cho anh một vé tàu và năm đô-la với hi vọng của nhà nước rằng với số tiền ân huệ ấy, anh sẽ có thể làm lại cuộc đời trở nên một công dân lương thiện. Ông Giám đốc nhà giam mời anh điếu xì gà rồi bắt tay thật chặt.
Valentine, người tù số 9762, được vào sổ như sau : 'Lệnh tha của Thống đốc'.
Thế là Jimmy Valentine đường hoàng trở về với những con đường đầy ánh nắng.
Chẳng màng đến tiếng chim hót líu lo, đến cành lá xanh tươi đang vẫy gọi bên đường, đến hương hoa thơm ngát từ khu vườn gần đấy, Valentine đi một mạch đến quán ăn. Tại đây, anh tận hưởng hương vị tuyệt vời của tự do bằng cách chén sạch nguyên con gà quay vàng rộm, uống cạn chai vang trắng, rồi khoan khoái phì phà điếu xì gà đắt tiền, đắt hơn nhiều so với điếu của viên Giám đốc nhà giam vừa tặng. No nê, thỏa mãn, anh nhàn tản đi đến nhà ga, điệu nghệ búng đồng xu con vào chiếc nón của người hành khất mù đứng trước sân ga, rồi nhanh nhẹn lên tàu. Ba tiếng đồng hồ sau đó, anh xuống tàu ở một ga nhỏ hiu quạnh, nằm gần ranh giới tiểu bang. Dừng chân ở quán cà phê mang tên Mike Dolan, Jimmy bước vào thân mật tay bắt mặt mừng ông chủ quán đang đứng sau quày.
Ông chủ quán nói :
- Xin lỗi cậu, Jimmy, tớ không thể xoay sở sớm hơn được. Có ý kiến phản đối việc tha cậu ở Springfield nên tay Thống đốc Tiểu bang rét quá suýt nữa hắn thôi không giải quyết đấy. Thế nào, khỏe chứ ?
Jimmy cười :
- Khoẻ. Có chìa khóa cho tôi không đấy ?
Cầm lấy chìa khóa, Jimmy lên lầu, ra mãi căn phòng nhỏ phía sau. Đồ vật trong phòng vẫn y nguyên. Trên sàn nhà vẫn còn hột nút áo của ông Chánh thanh tra Ben Price, lúc ông ấy cùng đám cảnh sát dưới quyền ập vào túm lấy anh.
Hạ chiếc giường xếp xuống, Jimmy mở ngăn bí mật trong vách, lấy ra chiếc vali bám bụi. Anh thận trọng đặt lên bàn, mở nắp, rồi đứng im, khoan khoái ngắm bộ đồ nghề mở két sắt độc nhất vô nhị của anh, bộ đồ nghề mở két hữu hiệu nhất miền Đông nước Mỹ. Nó đầy đủ các cơ phận, làm bằng loại thép cứng nhất, thiết kế theo mẫu mới nhất. Nào khoan, nào đục, nào kẹp, nào kềm, có một số bộ phận do đích thân Jimmy vẽ kiểu. Anh rất tự hào về bộ đồ nghề này. Anh đã phải trả hết 900 đô để đặt làm theo ý riêng của mình ở một chỗ chuyên làm dụng cụ cho giới giang hồ.
Nửa giờ sau, Jimmy xuống lầu, ra cửa. Giờ đây, anh mặc bộ complet vừa vặn, kiểu mới, tay xách chiếc vali.
Người chủ quán nháy mắt, hỏi :
- Đi làm sớm thế ?
- Làm gì ? - Jimmy ra bộ ngơ ngác, - Ơ hay, cái cậu này. Tôi chỉ là một nhân viên công ty bánh ngọt và chế biến lương thực New York đấy, nhớ chưa ?
Người chủ quán gật lia lịa, rối rít mời Jimmy uống rượu, nhưng anh từ chối, Jimmy không bao giờ uống rượu.
Một tuần sau ngày Valentine, người tù số 9762, được phóng thích, một vụ trộm lớn được tiến hành rất khéo ở Richmond, bang Indiana. Không một dấu vết để lại. Hai tuần sau, lại thêm một vụ khác. Lần này chiếc két bị trộm là loại hiện đại nhất, có gắn cả thiết bị báo động chống trộm, thế mà cánh cửa dày cộm của nó vẫn bị mở toang như người ta mở cửa sổ đón gió hè. Vụ trộm này xảy ra ở Logansport, số của cải bị mất trộm trị giá khoảng 1500 đô, trong tủ còn có nhiều hối phiếu và tiền xu lẻ nhưng không hề bị tên trộm mó tay vào. Cảnh sát bắt đầu quan tâm, nhưng mãi đến vụ trộm ở ngân hàng Jefferson City, số thất thoát lên cao, thì ông Chánh thanh tra Ben Price mới chịu xuất quân. So sánh dấu vết tại hiện trường, ông phát hiện ngay một nét tương tự về phong cách thực hiện của các vụ án. Ông tuyên bố :
- Chính thằng Jimmy Valentine chứ không ai khác ! Hắn lại giở trò rồi đấy. Xem cái núm khóa kia kìa - nó bị kéo tung ra cứ như người ta nhổ củ cải vào tháng mưa ấy. Kiểu ấy thì chỉ có cái kích hiện đại của thằng Valentine mới làm nổi thôi. Lại xem mấy thanh ngang kia kìa, chỉ khoan có một lỗ là bung ngay thế kia thì ngoài thằng Valentine ra chẳng có ai làm nổi !
Ông Ben Price đã thuộc lòng tính nết Jimmy. Ông nắm cả những thói quen nhỏ nhất của tên trộm tài hoa này qua những lần điều tra vụ cướp ở Springfield vừa qua. Jimmy thường đánh theo lối nhảy cóc. Đánh nhanh, rút lẹ, lẩn đi thật xa, rồi lại ra tay tiếp, lần sau táo bạo hơn lần trước. Hắn không cần phụ tá. Giới chủ ngân hàng phần nào nhẹ nhõm khi nghe tin ông Ben Price lại lên đường lần theo dấu vết tên trộm quỷ quái ấy.
Một chiều nọ, Jimmy Valentine tay xách vali, xuống xe tại một thị trấn nhỏ, tên là Elmore. Đấy là một thị trấn hẻo lánh, cách đường xe lửa xuyên Mỹ trên năm dậm, thuộc bang Arkansas. Trông anh ta như một sinh viên năm cuối bậc đại học, thích thể thao, đang trên đường về quê thăm nhà. Bước chậm rãi trên lề đường lót ván, anh dừng chân ở khách sạn.
Bỗng một thiếu nữ băng qua đường, đi ngang trước mặt anh, rồi rẽ vào căn nhà có treo tấm biển 'Ngân hàng Elmore'. Tình cờ cô liếc mắt nhìn anh. Thế là tâm hồn anh như choáng ngợp bởi ánh mắt diệu kỳ ấy, đầu óc bay bổng tận đâu đâu. Anh như đã biến thành một người nào khác. Cô thiếu nữ thẹn thùng cúi gầm mặt, hai má ửng hồng. Chả lẽ ở Elmore này, ăn vận như thế, ... đẹp trai như thế, hiếm lắm !
Jimmy vội túm ngay lấy một cậu bé con đang ngồi chơi trên bậc thềm gần đấy, giả vờ đang có ý muốn mua cổ phiếu của ngân hàng ở đây, nên phải hỏi để nắm tình hình. Cứ mỗi câu hỏi, anh ta lại giúi vào tay cậu bé đồng mười xu. Một lúc sau, cô gái đi ra, lần này không thèm để mắt đến chàng trai tay xách vali vẫn còn đứng đấy.
Jimmy nháy mắt, hỏi cậu bé :
- Hình như là cô Polly Simpson đấy phải không?
- Không đâu, chính là cô Annabel Adams đấy chứ. Bố cô ấy là chủ ngân hàng này.
Jimmy đến khách sạn gần đấy, đăng ký mướn phòng với tên Ralph Spencer. Anh nhẩn nha ở quày tiếp tân, gợi chuyện với anh nhân viên khách sạn, nói cho anh ta hay rằng mình muốn ở lại thị trấn Elmore này để làm ăn bằng việc kinh doanh giày, liệu có sống nổi không ?
Người nhân viên tiếp tân nhìn vẻ bên ngoài bảnh bao của Jimmy ra dáng kính nể. Anh ta nhiệt tình cho biết :
- Vâng, mở hàng giày ở đây sống lắm ! Hiện ở đây chưa có nơi nào kinh doanh giày cả. Trước nay mặt hàng này chỉ được bày bán ở cửa hàng tạp hóa và vật tư ở đằng kia. Việc kinh doanh buôn bán tại đây đang có chiều hướng phát triển khá. Hi vọng rằng sau khi cân nhắc thiệt hơn, ông sẽ quyết định lập nghiệp ở đây. Dân cư nơi đây hiền và hiếu khách lắm !
Jimmy cười :
- Vâng. Cảm ơn nhiều. Tôi sẽ ở lại vài ngày xem sao. ồ, không cần gọi bồi làm gì, tự tôi xách lấy được rồi.
Thế là Ralph Spencer, con phượng hoàng thoát xác cất cánh lên cao từ đống tro tàn của người tù Valentine - đống tro tàn phát xuất từ ngọn lửa tình nồng cháy qua lần đầu gặp gỡ. Jimmy quyết định lập nghiệp ở thị trấn nhỏ tên Elmore này. Hiệu giày của anh hoạt động tốt, có lãi.
Về mặt quan hệ xã hội, Jimmy cũng thành công không kém, anh quen biết nhiều, và hơn cả, sở nguyện của anh cũng đã thành. Annabel Adams nay là bạn anh và tình cảm của anh dành cho nàng ngày càng say đắm.
Đến cuối năm ấy, có thể tóm tắt hoàn cảnh sống của chủ hiệu giày Ralph Spencer như sau : anh được hầu hết cư dân trong thị trấn tin yêu, cửa hàng giày của anh ngày càng thịnh vượng. Trên tất cả, anh vừa đính hôn với cô Annabel Adams và đám cưới sẽ cử hành trong hai tuần nữa. Ông Adams, chủ ngân hàng Elmore, bố vợ tương lai của anh, rất hài lòng với chàng rể quý. Phần Annabel, cô yêu anh bao nhiêu thì quý trọng anh chừng ấy. Lúc này, Ralph Spencer gần như là thành viên chính thức của gia đình Adams. Ngày nào anh cũng đến chơi nhà bố vợ và nhà cô chị của Annabel.
Một hôm, Jimmy ngồi viết thư cho một người bạn ở St. Louis :
Billy thân mến,
Tớ muốn tối thứ tư tới đây, lúc chín giờ, cậu đến quán Sullivan ở Little Rock gặp tớ. Nhờ cậu giúp cho một việc. Ngoài ra, tớ muốn tặng cậu bộ đồ nghề của tớ. Tớ biết cậu khoái muốn chết khi có được một bộ như thế, làm bộ khác phải mất hơn nghìn đô-la là cái chắc. Billy ạ, tớ đã bỏ nghề rồi - được hơn năm nay. Hiện tớ đang có một cửa hàng, một cuộc sống lương thiện và hai tuần nữa tớ sẽ làm đám cưới với một cô gái tuyệt diệu nhất trên đời này. Cậu biết không ? Tớ đã nhận thức rằng chỉ lương thiện mới sống đời được, và tớ đã nhất quyết từ nay sẽ không tơ hào của ai một đồng xu nhỏ. Cưới vợ xong, tớ sẽ bán tất rồi dọn về miền Tây sinh sống, chỉ ở đấy mới hi vọng tớ sẽ không bị quấy rầy vì những tai tiếng cũ của mình. Tớ nói thật đấy ! Vợ tớ đúng là một nàng tiên. Nàng tin ở tớ hết lòng và chính vì thế tớ sẽ cố hết sức không làm một điều gì để phụ lòng tin ấy. Nhớ đến quán Sully's nhé. Tớ cần cậu lắm, và tớ sẽ đem bộ đồ nghề đến cho cậu.
Bạn cậu,
Jimmy
Vào tối thứ hai ấy. lúc Jimmy đang ngồi viết những dòng cuối cùng gởi cho bạn, thì Ben Price ngồi lắc lẻo trên chiếc xe ngựa thồ chạy đến Elmore. Đến nơi, ông lặng thinh, kín đáo rảo quanh một vòng để nắm tình hình qua chiếc gương trong cửa hàng tạp hóa nằm đối diện với tiệm giày của Ralph Spencer. Ông chăm chú quan sát thật kỹ dung mạo và dáng điệu của ông chủ trẻ. Ben Price thích thú cười :
- Thế đấy, Jimmy, chú mày lại sắp đi cưới con gái chủ ngân hàng cơ đấy !
Sáng hôm sau, Jimmy đến dùng điểm tâm bên nhà vợ. Hôm nay, anh định đi Little Rock để sắm sửa mấy món đồ chuẩn bị cho đám cưới và mua một món quà thật đáng giá cho Annabel. Kể từ lúc định cư ở Elmore đến nay, đây là lần đầu tiên anh rời thị trấn đi xa. Có lẽ không hề gì, vì tính từ vụ 'làm ăn' cuối cùng đến nay đã ngót một năm rồi.
Điểm tâm xong, cả nhà Annabel đều kéo nhau đi tiễn chân Spencer - ông Adams, Annabel, cả cô chị của Annabel cùng hai cô gái nhỏ mới lên năm và lên chín. Họ đến khách sạn nơi Jimmy ở để anh lấy hành lý - chiếc vali dạo ấy. Rồi tất cả kéo nhau đến ngân hàng. ở đấy, xe ngựa đang chờ Jimmy cùng với người xà ích tên Dolph Gibson để đưa anh ra ga. Ông Adams mời chàng rể quý vào ngân hàng chơi chốc lát, ông muốn khoe mọi người chiếc tủ sắt hiện đại ông vừa cho lắp đặt xong dưới tầng hầm. Đám nhân viên ngân hàng cúi chào anh răm rắp.
Đấy là một két sắt khá lớn được gắn chìm vào vách. Cửa tủ rất chắc chắn, mỗi lần quay tay nắm là ba thanh thép lớn đâm sâu, gắn chặt vào vách tủ. Trên cửa còn có cả núm khóa hẹn giờ tự động. Ông Adams phổng mũi giải thích những tính năng hiện đại của chiếc két sắt cho chàng rể quý, nhưng anh ta tỏ ra không quan tâm lắm. Hai bé gái, cháu May và Agatha, con gái của người chị Annabel, tỏ vẻ thích thú lắm. Chúng trố mắt nhìn lớp thép bóng loáng, mấy núm điều khiển tròn xoe trên cửa.
Trong khi mọi người đang lắng nghe ông Adams giải thích về cách đóng mở cửa, Ben Price từ từ bước vào, ông ta tì tay lên mặt quày bình thản nhìn quanh. Cô nhân viên đến hỏi, ông đáp đang chờ người quen.
Bỗng có tiếng phụ nữ la thất thanh, không khí hoảng hốt bao trùm lấy khu hầm để tủ sắt. Nhân lúc người lớn đang ham chuyện, cô bé May, chín tuổi, đùa nghịch đẩy Agatha vào trong tủ rồi đóng sập cửa lại. Cô bé còn bắt chước ông ngoại, kéo tay khóa rồi vặn mấy núm điều khiển trên cửa.
Ông Adams vội nhào đến chụp lấy tay nắm lay mạnh, nhưng muộn rồi. Ông hốt hoảng kêu lên :
- Chết rồi ! Không tài nào mở được. Lại chưa kịp chỉnh số hẹn giờ mới chết!
Người mẹ thất đảm hét hớn.
Ông Adams run rẩy trấn an con gái :
- Giữ bình tĩnh đi nào ! Agatha cháu ơi ! - Ông cố gọi thật lớn - Cháu nghe ông nói không ?
Trong bầu không khí im lặng đến nghẹt thở, mọi người nghe rõ tiếng khóc la của cô bé đang bị nhốt trong hầm tối.
Người mẹ khóc nức nở, cuống quýt lên :
- Ôi, phải làm gì kia chứ! Hãy phá cửa ra ngay !
Ông Adams thất vọng, lắc đầu :
- Con ơi, phải đến mãi Little mới có người mở được loại cửa này. Ông Ralph Spencer, ta phải làm sao đây ? Con bé đến chết mất ! Trong ấy ngộp lắm và đầy bóng tối nữa, con bé đến chết vì khiếp sợ thôi !
Người mẹ lúc này như phát cuồng lên, chị đập mạnh đôi tay yếu ớt vào cánh cửa thép nặng nề dầy cộm như muốn phá tung nó ra để cứu con mình. Có người hoảng quá, định lấy cốt mìn phá cửa. Nhưng làm như vậy thì còn gì cháu bé bên trong. Annabel ngước mắt nhìn Jimmy, ánh mắt khẩn khoản đầy hi vọng. Hi vọng, vì đối với nàng, người yêu của nàng có thể làm được tất cả, ngay cả những điều kỳ diệu nhất.
- Anh Ralph, hãy giúp chị ấy đi anh.
Jimmy nhìn sâu vào mắt nàng, miệng nở một nụ cười khó hiểu. Đối với anh, yêu cầu của nàng chính là mệnh lệnh của trái tim anh. Anh nói :
- Annabel, em hãy cho anh đoá hồng trên áo em.
Cô bỡ ngỡ, không tin vào tai mình, nhưng vẫn đưa tay gỡ lấy cánh hồng trên áo, trao cho người yêu. Jimmy cẩn thận cài cánh hồng vào túi, rồi bắt đầu xắn tay áo. Chính qua hành động xắn áo ấy, nhân vật Ralph Spencer đã chết, và tên trộm tài danh Jimmy Valentine đã trỗi dậy từ đống tro tàn quá khứ.
Anh nói ngắn, gọn :
- Mọi người tránh ra hết đi !
Anh mở toác chiếc vali mang theo. Và từ lúc ấy đối với anh, chung quanh như không có ai. Bằng những hành động rất chính xác, nhanh gọn, anh lấy đồ nghề ra, sắp xếp theo thứ tự sử dụng, vừa làm vừa huýt sáo nho nhỏ. Đấy là một thói quen cố hữu của anh lúc đang 'hành sự'. Mọi người nhìn anh trân trối.
Chỉ một phút sau, mũi khoan nhỏ của Jimmy ăn thật ngọt vào cánh cửa thép. Mười phút sau, cánh của mở toang. Anh đã phá cả kỷ lục chính anh lập nên qua các lần mở trước.
Cô bé Agatha té xỉu trong vòng tay mẹ. Không việc gì.
Jimmy Valentine cầm lấy áo khoác vắt trên ghế đi nhanh ra cửa. Anh nghe có tiếng kêu 'Anh Ralph !' thật thân thương nhưng xa vắng làm sao. Anh vội bước đi.
Bỗng có người chắn lối anh đi.
Jimmy cười, vẫn nụ cười khó hiểu ấy :
- A, xin chào ông Ben. Ông đã đến đấy ư ? Thôi ta đi nào, đến mãi bây giờ tôi mới thấy được rằng cuộc sống thật phù du vô ích.
Nhưng ông Ben Price cứ đứng yên. Ông ta nói :
- Ông Ralph Spencer, ông nhầm rồi đấy ! Tôi không hề quen ông. Hình như xe đang chờ ông ngoài ấy ?
Nói xong, ông quay lưng đi thẳng.
************************************
Hết
GemLeaf is offline  

Old 20-02-2006, 11:07  

Manager
 
Join Date: 14-09-2005
Posts: 570
KL$ (TOP! 8): 8.632
Awarded 34 time(s)
Sent 54 thank(s)
Received 33 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A6 (2005-2008)
Location: My house

<div align=center>Tiền Và Thần Tình Yêu</div>

Nghe có tiếng xe hơi đậu, ông Anthony Rockwall - nhà công nghiệp, chủ hãng xà phòng Eureka nay đã nghỉ hưu - ngẩng lên, nhìn qua cửa sổ phòng đọc sách. Thấy người hàng xóm ở kế bên phải - lão quí tộc G.Van Schuylight Suffolk Jones - bước xuống xe, ông bắt tức cười. Như thường lệ, vừa chạm mặt pho tượng Ý thời Phục hưng đặt trước tiền sảnh dinh cơ của ông, lão quí tộc lại nhăn tít cái mũi khoằm khoặm lại. Cựu hoàng xà phòng lắc đầu: ”Khó chịu với cái bức tượng cổ ấy làm gì cơ chứ ; phải lão đừng để ý, ta đã tặng nó cho viện bảo tàng rồi…Hè tới đây, ta sẽ cho sơn lại ngôi nhà này, không biết lúc ấy cái mũi vẹt của lão còn chun tới đâu nữa!”. Vươn vai đứng dậy bước ra cửa phòng, với cái giọng rền vang như chuông vỡ, ông gọi to: ”Mike!”; và khi nghe có tiếng đáp, ông bảo: “Nói với con trai ta, có đi đâu thì cũng phải vào đây một lúc đã, nhé!”. Và, khi con trai ông - một tay xóc xóc xâu chìa khóa trong túi quần, tay kia vò đầu nhưng quần áo vẫn tươm tất - bước vào, ông đặt tờ báo sang một bên, soi mói nhìn anh. Đột nhiên, ông hỏi:

- Richard, xà phòng con vẫn dùng, con trả thế nào?

Richard bối rối. Mới ra trường, về nhà chưa đến sáu tháng, chưa hiểu hết tính khí của ông già, anh lúng túng cứ như một cô gái khi đến dự buổi khiêu vũ đầu tiên trong đời. Anh lắp bắp:

- Đâu chừng... sáu đô la một tá, bố à!

- Còn quần áo con vẫn mặc?

- Dạ... cỡ sáu mươi đô; cũng vừa phải thôi...

Ngồi nhỏm dậy, vẻ dứt khoát, ông già bảo:

- Con thuộc giới thượng lưu. Bố nghe nói giới trẻ thượng lưu vẫn xài xà phòng loại hai mươi bốn đô một tá, và quần áo chúng mặc không thứ nào dưới một trăm đô; con đâu có thiếu tiền, tội gì phải dè sẻn! Hiện nay, không phải vì tư vị mà bố vẫn xài xà phòng Eureka loại cũ; đó là loại tốt nhất đấy. Đừng có vì hà tiện mười xu mà đi mua loại xà phòng tồi; đối với thanh niên ở thế hệ của con, với vị trí xã hội như con, xài xà phòng loại năm mươi xu một bánh thì cũng cho là được đi. Bố đã nói, con thuộc giới thượng lưu; người ta vẫn thường nói là phải phấn đấu cả ba đời mới chen chân được vào giới đó, bố không tin như vậy. Cũng như dầu để nấu xà phòng, tiền bạc bôi trơn tuốt; tiền bạc sẽ đặt con vào giới thượng lưu. Nói không quá đáng chứ, nhờ có tiền, bố mới là bố, bố thô lỗ, bố cục mịch không khác mấy lão ở kế nhà mình, vậy mà bố còn phải vãi tiền ra mới được xem là cùng giới với họ...

- Cũng có thứ mà tiền không làm được đâu, bố à! - Richard rầu rĩ đáp.

Ông già tỏ ra phật ý:

- Thời buổi này mà con còn nói vậy à? Bố sẵn sàng đánh cuộc đấy. Con cứ thử tra từ đầu đến cuối quyển đại từ điển bách khoa xem, có thứ gì mà con không mua được bằng tiền không; bố đố con đấy...

Vẻ bứt rứt, Richard đáp:

- Có đấy bố; có một thứ mà không tiền bạc nào mua được.

Ông Anthony kêu lên:

- Thật vậy sao? Đâu, con nói thử đi, có thứ gì mà tiền bạc không thể mua được đâu nào?

Richard lắc đầu.

Ông già quạu:

- Bố kêu con vào là vì chuyện ấy đấy; từ hai tuần nay bố để ý thấy hình như con có chuyện gì không ổn. Có gì mà phải buồn cơ chứ. Bố chỉ nhón tay một cái là thu được ngay mười một triệu đô la trong vòng hai mươi bốn tiếng đồng hồ, không tính của chìm. Nếu con muốn, chiếc du thuyền Rambler thả neo trong vịnh kia sẽ là của con; đổ than vào, chỉ cần hai ngày là con có thể tắm biển ở Bahamas...

Richard hiểu ý ông già muốn nói gì; anh nói giọng uể oải:

- Bố đoán gần đúng rồi đấy.

- A! - ông già nheo mắt, reo lên:

- Vậy thì nói đi, cô ta tên gì nào?

Richard đi đi lại lại quanh phòng; ông già tuy hay lớn tiếng nhưng coi bộ từng trải, dễ gần, có thể trút bầu tâm sự được.

Thấy Richard không trả lời, ông già lại đoán:

- Con chưa biết tên cô ta à; sao không hỏi? Bố tin là cô ta ngã vào vòng tay con ngay ấy chứ! Con có tiền này, đẹp trai này, lịch thiệp này, tay con không hôi mùi xà phòng này, con có học này... cô ta còn muốn gì nữa, hả?

- Con không có cơ hội gần gũi cô ấy. - Richard rầu rĩ đáp.

- Cơ hội - Ông già kêu lên - Sao không tạo cơ hội? Mời cô ta đi dạo ở công viên, đưa cô ta về nhà sau khi xem lễ, đón cô ta sau buổi hòa nhạc… Ôi dào, cơ với chả hội!

- Bố không biết ấy chứ... trong tầng lớp cô ta, giờ giấc sít sao lắm, được sắp đặt trước hàng mấy ngày... Không cưới được cô ấy, đối với con, thị trấn này chẳng khác gì chốn ngục tù u ám... Con không viết thư cho cô ấy được đâu, làm như vậy không được đâu!

- Thôi đi, ý con muốn nói tiền bố cho con chưa đủ để mua một hai giờ trò chuyện tay đôi với cô ta chứ gì?

- Trễ rồi bố à! Trưa ngày kia là cô ấy đi châu Âu học trong hai năm. Ngày mai con sẽ gặp riêng cô ấy được ít phút. Lúc này cô ấy đang ở nhà bà dì ở Larchmont, con không đến đó được, nhưng cô ấy đã nhận lời cho con đi taxi đến đón cô ấy ở ga xe lửa trung tâm lúc 8g30, từ đó tụi con phải đi thật nhanh đến rạp Wallace. Mẹ cô ấy và mấy người nữa sẽ đợi sẵn ở đó để cùng vào xem kịch với tụi con. Bố thử nghĩ, trong hoàn cảnh ấy, với sáu, bảy phút, con làm sao nói chuyện được với cô ấy, nói được gì nào? Rồi trong khi xem kịch hoặc cả sau đó nữa, còn cơ hội nào để con bày tỏ với cô ấy đây? Không, không còn cơ hội nào nữa đâu! Tiền bạc của bố không giúp gì được đâu, không mua được phút nào đâu! Nếu mua được, hẳn người giàu đã bỏ tiền ra mua để được sống lâu hơn... Từ bây giờ cho đến lúc cô ấy lên đường, không hy vọng gì kiếm ra thời gian để gặp riêng cô ấy được đâu!
Ông Anthony nheo mắt:

- Được rồi, được rồi, Richard. Giờ thì con có thể xuống câu lạc bộ chơi được rồi đấy. Bố hy vọng là con không quá si ngốc đến mức quên cả vui chơi… À, thỉnh thoảng con cũng nên vào đền thắp vài nén nhang cầu thần Mazuma phù hộ... - Ngừng một chút, ông tiếp: - Tất nhiên là con không thể dùng tiền mua thêm thời gian cho mình hoặc ra lệnh cho thời gian ngừng trôi, nhưng bố thì đã nhiều lần bố trông thấy Thần Thời gian vấp té dập cả chân khi bước qua mấy cái mỏ vàng đấy!

Tối đó, lúc ông già đang đọc tờ báo buổi chiều thì cô Ellen tới; chẳng mấy chốc, cuộc chuyện trò giữa hai anh em đã xoay quanh chuyện thằng cháu si tình.

Ông già che miệng ngáp:

- Nó nói với tôi cả rồi, và tôi cũng đã nói với nó là tiền bạc của tôi là để lo cho nó, nhưng nó không tin là tiền bạc có thể lo được. Nó nói tiền bạc cũng chẳng ích gì. Nó nói là dù cho có cả chục ông triệu phú cùng xúm vào cũng không thể nào lay chuyển nổi các ước lệ xã hội...

Cô Ellen nóng nảy:

- Anh Anthony này, anh đừng nói đến chuyện tiền bạc nữa, có được không! Đối với tình yêu chân thành thì tiền bạc có ý nghĩa gì cơ chứ! Anh phải biết, tình yêu có sức mạnh vạn năng. Phải chi nó chịu nói sơm sớm một chút... Em biết, cô ta không từ chối thằng Richard nhà mình đâu. Giờ thì trễ quá rồi, thằng bé đâu còn dịp nào để ngỏ ý với cô ta nữa chứ! Tiền bạc của anh làm sao mua được hạnh phúc cho nó! Tám giờ tối hôm sau, cô Ellen lục trong chiếc hòm mọt đục, lấy ra một chiếc nhẫn vàng trông là lạ, đem đến cho Richard. Cô bảo:

- Đây là chiếc nhẫn mẹ cháu để lại cho cô. Mẹ cháu nói là nó đem lại may mắn trong tình yêu, và dặn cô trao lại cho cháu khi nào cháu tìm được người yêu. Tối nay, cháu nhớ đeo vào tay…Richard thành kính cầm chiếc nhẫn, ướm vào ngón tay út; nó hơi lỏng, vào quá đốt thứ hai một tí mới dừng lại. Với phong thái chững chạc của một người đã trưởng thành, anh cởi nhẫn ra, cất vào túi áo vét, xong, anh quay điện thoại gọi taxi.

Tám giờ ba mươi hai phút, anh nhìn thấy Lantry đứng lẫn trong đám đông trước cửa nhà ga. Thấy anh, cô gái nói nhanh:

- Mình phải nhanh nhanh lên mới được, đừng để mẹ phải đợi lâu!

- Tới rạp Wallace, càng nhanh càng tốt. - Richard ra lệnh cho tài xế.

Theo đường Bốn mươi hai, xe đổ ra đại lộ Broadway, xuôi theo làn đường dành riêng cho xe con. Đến đường Ba mươi tư, Richard đập vai tài xế, bảo dừng lại. Anh xin lỗi cô bạn, xuống xe:

- Tôi bị rớt chiếc nhẫn. Chờ tôi một phút, tôi thấy chỗ nó rơi rồi. Nhẫn mẹ tôi để lại, để mất... tôi không đành lòng...

Chưa đến một phút, anh đã quay trở lại, chiếc nhẫn trên tay.
Nhưng, trong khoảng thời gian chưa đến một phút đó, không biết từ đâu, một chiếc xe to kềnh đã đậu chắn ngay phía trước chiếc taxi. Tài xế lách sang trái, cố vượt qua, nhưng vướng phải chiếc xe tải chất đầy hàng hóa; anh ta lùi xe, tính lách sang phải, lại đụng nhằm chiếc xe chở bàn ghế tủ giường lổn ngổn đậu ở phía sau, lái xe không biết đã bỏ đi đâu; hết đường xoay trở, tài xế rủa thầm trong bụng, ôm vô-lăng chịu trận giữa cái mớ xe cộ vô ý thức đó.

Cô Lantry nóng nảy giục:

- Đi đi chứ, trễ quá rồi!

Richard nhổm lên, nhìn quanh. Cả một rừng xe – nào taxi, nào xe tải, xe con, xe tải nặng... đậu bít cả giao lộ mênh mông nơi các con đường Ba mươi tư, đại lộ số Sáu, đại lộ Broadway cắt nhau; đã vậy, từ các đường nhánh, xe cộ cứ ùn ùn đổ tới, cản sau xe trước chạm cản trước xe sau, cả cửa xe cũng bị ép cứng, không tài nào mở ra được.
Richard ngồi xuống, lắc đầu:

- Mình bị kẹt xe rồi. Ít ra cũng phải cả tiếng đồng hồ mới giải tỏa được cái mớ bòng bong này... Cũng tại tôi, phải chi chiếc nhẫn không rớt thì đâu đến nỗi...

Cô Lantry hỏi:

- Chiếc nhẫn đâu, anh cho xem... Tôi không trách anh đâu; vả lại tôi chỉ lo mẹ mong, chứ kịch thì cũng chẳng có gì đáng để xem...

Mười một giờ tối. Cửa phòng ông Anthony có tiếng gõ. Đang nằm trên giường xem dở quyển truyện phiêu lưu, ông già quát:

- Vào đi!

Đó là cô Ellen. Cô nói, không giấu nổi vẻ náo nức:

- Anh Anthony, tụi nó đính hôn rồi; cô ấy nhận lời cầu hôn của thằng Richard nhà mình rồi!... Tụi nó kẹt xe suốt hai tiếng đồng hồ, và thằng bé nhà mình đã không bỏ lỡ cơ hội...

Ngừng một chút để thở, cô nói tiếp:

- Nào, anh Anthony, giờ thì anh hết khoe của nhé! Chỉ cần một biểu tượng của tình yêu, chỉ cần một chiếc nhẫn tượng trưng cho tình yêu chân thành, chung thủy cũng đủ để thằng Richard nhà mình tìm thấy hạnh phúc... Tiền bạc thì làm sao bù được với tấm chân tình kia chứ!

Ông Anthony ngắt lời:

- Đủ rồi, đủ rồi; chỉ cần thằng bé đạt được ý nguyện là tôi mừng rồi. Tôi đã bảo, nếu nó cần thì tốn kém bao nhiêu tôi cũng không tiếc...

Cô Ellen cố cãi:

- Nhưng thử hỏi trong chuyện này, tiền bạc có đem lại được điều gì tốt đẹp không nào?!

Ông Anthony Rockwall dài giọng:

- Thôi nào, cô em; tôi đang đọc đến chỗ tên cướp bị đắm tàu đây này; để xem tiền bạc có thể cứu hắn thoát chết đuối được không… Cô để tôi đọc hết chương này đã, có được không?

Chuyện đến đây là hết. Tự thâm tâm, tôi mong là độc giả cũng hài lòng với hạnh phúc của Richard. Tuy nhiên, tôi nghĩ, nói gì thì nói, tỏ tường ngành ngọn vẫn hơn.

Sáng hôm sau, trước dinh cơ ông cựu hoàng xà phòng xuất hiện một người mặc áo ngắn tay, thắt chiếc cà-vạt xanh lốm đốm; anh ta rung chuông và được mời ngay vào phòng đọc sách.

Vớ tập ngân phiếu trên bàn, ông Anthony xé một tờ:

- Đây, năm ngàn tiền mặt, thưởng cho anh về khoản dầu để nấu xà phòng…

Kelly, người mặc áo ngắn tay, nói:

- Tôi còn phải xuất thêm ba trăm đô ngoài kế hoạch nữa đó: thuê thêm chiếc xe hàng với mấy chiếc taxi hết năm đô, chiếc xe tải nặng và mấy chiếc tải nhẹ mất mười đô. Mấy người chạy mô-tô đòi mười đô, đội bốc vác đòi hai mươi đô. Cảnh sát giao thông quất tôi nặng nhất, hai người trước, mỗi người năm mươi đô; hai người sau, một người hai mươi, một người hai mươi lăm... nhưng... họ cũng làm ra trò đấy chứ, ngài Rockwall? Cũng may mà ngài Thị trưởng không nhìn thấy cảnh kẹt xe... Chẳng tập dượt gì mà giờ giấc đâu đó khít rim; đúng hai tiếng đồng hồ, không sai chạy lấy một giây...

- Một ngàn ba trăm đô, anh cầm lấy. Thưởng thêm cho anh một ngàn, còn ba trăm là để bù vào số tiền túi của anh. Anh không chê tiền chứ, anh Kelly?

- Tôi ấy à? Cứ có tiền thì bắt tôi làm mọi tôi cũng làm.

Ông Anthony gọi giật lại khi Kelly vừa ra đến cửa:

- Tôi quên hỏi, ở chỗ kẹt xe, anh có trông thấy một chú bé bụ bẫm, trần truồng, giương cung bắn vãi ra bốn hướng không?

Kelly ngơ ngác:

- Sao, ông nói sao? Bắn tên vãi ra ấy à? Dààà... tôi không thấy, nhưng nếu có hẳn nó đã bị cảnh sát bắt nhốt từ trước rồi...

- Dễ gì bắt được nó - ông Anthony cười: - Thôi chào anh, Kelly !
GemLeaf is offline  

Old 20-02-2006, 13:55  

kBank Manager
 
Join Date: 24-04-2004
Posts: 2.502
KL$ (TOP! 28): 4.298
Awarded 58 time(s)
Sent 329 thank(s)
Received 236 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A3 (2003-2006)
Location: Where the 4-leaf-clover grows ^__*

Thanks em GemLeaf nhá
Em cũng được lên chức, nhưng mà sis ko bít post tặng em truyện gì, tại ko rõ em thích thể loại gì.



------------------------------
Nobody falls in love by choice, it is by chance.
Nobody stays in love by chance, it is by work : )
Midori is offline  

Old 20-02-2006, 18:03  

Manager
 
Join Date: 14-09-2005
Posts: 570
KL$ (TOP! 8): 8.632
Awarded 34 time(s)
Sent 54 thank(s)
Received 33 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A6 (2005-2008)
Location: My house

^^ truyện gì chị post tặng em cũng thích tất ^^ truyện gì đọc chả được ạ ^^ Anyway, m thích kiếm hiệp (hehe, chị đừng post tặng, tốn công (dài khủng khiếp ^^) với cả tốn bandwidth í :p mà khéo lại post trùng truyện em đọc chục lần rồi ^^
**************************************
<div align=center>Câu chuyện tỉnh lẻ</div>

Lúc tôi xuống tàu ở thị trấn Nashville thuộc bang Tennessee thì trời đang mưa , một màn mưa màu xám kéo dài lê thê . Vì mệt nên tôi đi thẳng về khach sạn . Trong hành lang khách sạn , một người đàn ông to lớn nặng nề cứ đi đi lại lại . Có một cái gì đó trong cách đi của con người này làm tôi nghĩ đến con chó đói đang đánh hơi tìm khúc xương . Hắn có bộ mặt phì nộn , đỏ gay với cặp mắt thiếu ngủ . Hắn tự giới thiệu là Wendwood Caswell , thiếu tá Wendwood Caswell , xuất thân từ một gia đình danh giá ở miền Nam . Caswell kéo tôi vào phòng khách lớn của khách sạn , la lối gọi người bồi bàn . Hắn gọi rượu cho cả hắn và tôi . Vừa uống hắn vừa không ngớt lời giới thiệu về hắn , về gia đình hắn và về gia đình vợ . Hắn nói vợ hắn giàu lắm . Hắn thọc tay vào túi áo khoác lấy một nắm những đồng tiền ra khoe với tôi . Đến lúc ấy thì tôi đã chán hắn đến tận cổ . Tôi chào hắn rồi về phòng .
Từ cửa sổ khách sạn nhìn ra ngoài tôi thấy đường phố chìm trong im lặng , mặc dù lúc ấy mới là 10 giờ . " Thật là một nơi yên tĩnh " . Tôi tự nói với mình khi đã chuẩn bị lên giường nằm . " Đúng là một thị trấn buồn tẻ tầm thường của miền Nam " .
Tôi cũng là người miền Nam nhưng bây giờ tôi ở miền Bắc , làm phóng viên cho một tạp chí lớn . Ông chủ bút phái tôi đi Nashiville vì tạp chí có nhận được mấy tập truyện và thơ của một tác giả ở Nashiville tên là Asilea Adea . Người biên tập rất thích những tác phẩm của bà nên người ta yêu cầu tôi ký với bà một hợp đồng , theo đó bà sẽ chỉ viết riêng cho tạp chí của chúng tôi thôi .
Sáng hôm sau đúng 9 giờ sáng , tôi ra khỏi khách sạn để đi tìm bà Adea . Lúc đó trời vẫn còn mưa . Tôi vừa bước chân ra ngoài thì đã gặp ngay bác đánh xe Seezer . Bác là một người đàn ông da đen dã có tuổi , thân hình to lớn , mái tóc màu xám kiểu cách . Bác Seezer khoác một chiếc áo kỳ quái , tôi chưa từng thấy bao giờ . Chiếc áo này rất dài , lúc còn mới hẳn phải là màu xám và trước đây chắc phải là áo của một viên sĩ quan . Bây giờ thì mưa , nắng và thời gian đã làm cho nó mang đủ các thứ màu vẫn thấy trên cầu vồng . Chiếc áo chỉ còn có mỗi một khuy . Cái khuy màu vàng và to vừa bằng đồng 50 xu . Bác Seezer đứng cạnh cỗ xe ngựa , bác mở cửa xe và nói rất nhã nhặn :
- Mời Ngài lên xe , tôi sẽ đưa Ngài đến bất cứ đâu trong thị trấn này .
- Tôi muốn đến nhà số 8 - 61 phố Hoa Nhài .
Tôi nói và định bước lên xe .
Người đánh xe giữ tôi lại :
- Sao Ngài lại đến chỗ ấy ?
- Đến chỗ ấy thì việc gì tới anh ?
Tôi bực mình nói .
Bác Seezer đấu dịu , mỉm cười :
- Thưa không . Nhưng chỗ ấy là một nơi hẻo lánh của thị trấn này . Tôi chỉ đưa Ngài đến đó rồi xin đi ngay thôi .
Số 8 - 61 phố Hoa Nhài đã từng là một ngôi nhà đẹp . Còn bây giờ thì nó trở thành cổ lỗ và đang chết dần chết mòn . Tôi xuống xe .
- Xin Ngài cho 2 đô la .
Bác Seezer nói .
Tôi trả bác hai tờ giấy bạc 1 đô la . Lúc đưa tiền cho bác , tôi để ý thấy một tờ bị rách ở giữa và được dán lại bằng miếng giấy màu xanh . Tờ bạc còn bị mất một góc ở phía trên , bên phải .
Asilea tự mở cửa cho tôi . Bà trạc 50 tuổi . Mái tóc trắng chải ngược ra phía sau làm nổi rõ khuôn mặt nhẹ nhàng nhưng mệt mỏi . Bà mặc một bộ đồ màu vàng nhạt . Bộ đồ đã cú nhưng rất sạch . Asilea dẫn tôi vào phòng khách . ở giữa phòng kê một chiếc bàn đã mọt , ba cái ghế tựa và một chiếc tủ sôpha cũ màu đỏ . Bà mời tôi ngồi vào bàn và chúng tôi bắt đầu câu chuyện . Tôi nói với bà về đề nghị của tạp chí , còn bà tự giới thiệu mình . Bà xuất thân từ một gia đình danh giá ở miền Nam , cha bà làm nghề hội thẩm . Asilea Adea kể với tôi rằng bà chưa bao giờ cắp sách đến trường . Các cụ thân sinh đã thuê thầy tư về dạy cho bà học tại nhà .
Kết thúc câu chuyện , tôi hẹn hôm sau sẽ mang hợp đồng đến ký rồi đứng dậy cáo từ . Đúng lúc ấy có tiéng gõ nhẹ vào cánh cửa phía sau . A silea Adea khẽ xin lỗi rồi đi vào mở cửa . Chỉ một lát sau bà đã quay ra . Trông bà trẻ lại tới 10 tuổi , đôi mắt long lanh , hai gò má ửng hồng .
- Anh phải uống với tôi một chén trà rồi hãy đi .
Bà nói rồi cầm chiếc chuông nhỏ để trên bàn khẽ lắc . Một bé gái da đen chừng 12 tuổi chạy ra . Asilea Adea mở chiếc vĩ nhỏ và cũ lấy ra một tờ giấy bạc 1 đô la . Tờ giấy bạc được dán lại bằng một miếng giấy xanh và bị mất góc trên bên phải . Đó chính là tờ giấy bạc tôi đã trả cho bác Seezer .
- Intes , sang cửa hàng ông Baker mua cho bác 25 xu chè và 10 xu đường , nhanh lên nhé .
Đứa bé gái chạy ra khỏi phòng theo lối cửa sau . Chúng tôi nghe thấy tiếng cánh cửa khép lại . Tiếp theo đó là tiếng kêu của đứa bé . Tiếng nói của nó chìm trong sự giận dữ của một người đàn ông . Asilea đứng dậy . Bà đi ra ngoài , mặt không hề đổi sắc . Tôi nghe thấy tiếng đàn ông cục cằn lẫn với tiếng nói nhỏ nhẹ của bà . Rồi tiếng cánh cửa đạp mạnh và bà quay trở lại :
- Xin anh thứ lỗi , cuối cùng thì ngay cả đến chén trà tôi cũng không mời anh được . Bà nói . Hình như ông Baker cũng hết chè bán rồi . Chắc nó sẽ mua được chè cho cuộc gặp ngày mai .
Chúng tôi chào nhau rồi tôi quay vê khách sạn .
Trước bữa ăn cơm chiều , thiếu tá Wendwood Caswell tìm tôi . Tôi không làm sao tránh được hắn . Hắn cứ nài tôi uống rượu bằng được . Hắn móc ở trong túi ra hai tờ giấy bạc 1 đô la . Lại một lần nữa tôi nhìn thấy tờ giấy bạc 1 đô la rách được dán một miếng giấy màu xanh và bị mất một góc . Đó cũng chính là tờ giấy bạc tôi đã trả cho bác Seezer . Thằng cha này lạ thật ! Tôi cứ phân vân mãi không hiểu bằng cách nào mà Caswell lại có được tờ giấy bạc này .
Sáng hôm sau , bác Seezer đợi sẵn tôi ở bên ngoài khách sạn . Bác đưa tôi đến nhà bà Adea và đống ý chờ cho đến khi chúng tôi làm việc xong . Bà Adea trông không được khỏe . Tôi giải thích cho bà nghe về bản hợp đồng rồi bà ký ngay . Lúc định đứng dậy , nét mặt bà bỗng biến sắc , bả xỉu đi rồi ngã vật xuống sàn nhà . Tôi vội đỡ bà dậy rồi dìu bà lên nằm trên chiếc ghế sôpha cũ màu đỏ . Tôi chạy ra cổng gọi bác Seezer vào giúp . Bác chạy vội xuống phố và 5 phút sau quay lại cùng với bác sỹ . Ông bác sỹ khám cho bà Adea rồi quay sang nói với bác đánh xe người da đen .
- Bác Seezer , ông nói , bác chạy sang bảo nhà tôi đưa cho một ít sữa và mấy quả trứng nhanh lên .
Rồi ông quay sang tôi :
- Bà ấy thiếu ăn , ông nói , bà ấy còn nhiều bạn bè và họ đều muốn giúp đỡ bà ấy . Nhưng bà Caswell rất giữ ý và chỉ chịu nhờ vả có mỗi mình ông già da đen đó thôi . Ông ấy từng là nô lệ của gia đình bà .
- Bà Caswell ? Tôi nói giọng đầy ngạc nhiên . Tôi tưởng bà ấy là Asilea Adea chứ ?
- Trước khi lấy Wendwood Caswell , ông bác sỹ nói . Cách đây 20 năm bà ấy đã từng là Asilea Adea . Chồng bà ây là một con sâu rượu hoàn toàn vô dụng . Lão ta cướp của vợ đến đồng xu mà bác Seezer san sẻ cho bà .
Lúc ông bác sỹ đi rồi , tôi lại nghe thấy tiếng của bác Seezer ở phòng bên cạnh :
- Hắn lại cướp tất cả số tiền hôm qua con đưa cho bà rồi à ?
- ừ , tôi nghe thấy tiếng của A silea trả lời rất khẽ , lão lấy cả hai tờ .
Tôi liền đi vào đưa cho Asilea Adea 50 đô la . Tôi nói đó là tiền của tạp chí gửi . Rồi bác Seezer đưa tôi trở lại khách sạn .
Khoảng vài giờ đồng hồ sau , trước bữa cơm chiều , tôi ra ngoài đi tản bộ một lúc . Đến trước một cửa hàng , tôi thấy có đám đông đang bàn tán chuyện gì đó rất ồn ào . Tôi bèn rẽ vào cửa hàng . Thiếu tá Caswell đang nằm sóng sượt trên sàn . Hắn đã chết . Người ta tìm thấy hắn nằm bất tỉnh ở ngoài phố . Hắn bị giết trong một cuộc ẩu đả . Đúng là tay hắn vẫn còn nắm rất chặt . Khi tôi bước lại gần cái xác thì bàn tay phải của Caswell bỗng duỗi ra . Có cái gì đó rơi xuống và lăn đến cạnh chân tôi . Tôi giẫm một bàn chân lên . Sau đó , tôi cúi xuống nhặt cái vật ấy bỏ vào túi áo .
Người ta nói một tên ăn cắp đã giết Caswell . Họ bảo Caswell khoe với mọi người là hắn có 50 đô la . Nhưng khi tìm thấy cái xác thì trên người hắn chẳng còn xu nào .
Sáng hôm sau , tôi rời Nashville . Lúc tàu chạy ngang qua sông , tôi lấy trong túi áo ra cái vật hôm qua rơi khỏi bàn tay đã chết của Caswell . Tôi ném nó xuống dòng sông đang chảy lững lờ phía dưới . Đó là một chiếc khuy áo . Chiếc khuy màu vàng . Chiếc khuy cuối cùng trên áo khoác của bác Seezer.
*********************
END
GemLeaf is offline  

Old 20-02-2006, 18:12  

Manager
 
Join Date: 14-09-2005
Posts: 570
KL$ (TOP! 8): 8.632
Awarded 34 time(s)
Sent 54 thank(s)
Received 33 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A6 (2005-2008)
Location: My house

<div align=center>Cây xương rồng</div>

Điều quý nhất của thời gian là nó chỉ thuần tương đối. Theo sự nhất trí chung, phần lớn những hồi tưởng được dành cho người đang bị thì thụp rơi xuống nước và ta không nói quá là con người có thể duyệt lại toàn bộ cuộc tình chỉ trong thời gian ngắn ngủi khi họ cởi đôi găng tay.

Đấy là việc Trysdale đang làm, khi anh đứng bên chiếc bàn trong căn phòng độc thân anh thuê. Trên mặt bàn là một cây xanh trồng trong một cái lọ bằng đất nung đỏ. Cây này là một loài xương rồng, với những chiếc lá dài thõng, liên tục đong đưa theo ngọn gió nhẹ nhất trong cử chỉ lạ lùng dường như ra dấu hiệu gì đấy.

Anh bạn của Trysdale, anh trai của cô dâu, đứng kế bên cái tủ bát đĩa, đang phàn nàn vì phải uống rượu một mình. Cả hai đang mặc bộ quần áo dự lễ.

Trong khi Trysdale đang chậm rãi cởi những cúc găng tay, đầu óc anh nhanh chóng và đau xót hồi tưởng lại những giờ vừa trôi qua. Dường như khứu giác của anh vẫn còn đượm mùi hương từ những lẵng hoa xếp dầy đặc trong nhà thờ và trong tai anh vẫn còn vang tiếng rầm rì của hàng nghìn giọng hát, tiếng xào xạc của trang phục giòn cứng và dai dẳng một cách cố chấp nhất, những lời ê a của vị mục sư đang buộc đời cô vào người khác mà không ai gỡ ra được.

Như thể do thói quen của đầu óc anh ta, từ khía nhìn chung cục vô vọng này, anh vẫn cố gắng hết mức để đi đến lời lý giải tại sao và làm thế nào anh đã mất cô. Bị một thực tế không thể dung hoà giáng cho anh một cú thô bạo, anh bất ngờ thấy mình đối diện với cái mà từ xưa đến giờ anh chưa bao giờ giáp mặt - cái bản ngã sâu thẳm, nguyên sơ và giản đơn của anh. Anh đã thấy mọi lớp nhung y của trò giả vờ và kiêu kỳ mà anh đã mặc giờ biến thành giẻ rách của tính ngông cuồng. Anh rùng mình với ý nghĩ rằng, từ trước đến giờ, trong con mắt của thiên hạ, trang phục của anh hẳn có vẻ nghèo nàn và tả tơi. Tính phù phiếm và tật hay dối gạt! Đây là những điểm yếu của anh. Và riêng cô thì không bao giờ như thế! Nhưng tại sao…

Khi cô đi chậm rãi giữa hai hàng ghế dẫn đến bục làm lễ, anh cảm thấy một nỗi đắc thắng thấp hèn, chán ngán vốn vẫn thường nâng đỡ anh. Anh đã tự nhủ là vẻ nhợt nhạt của cô là do ý nghĩ cô dành cho một người nào khác chứ không phải cho người cô sẽ trao cuộc đời. Nhưng ngay điều an ủi tệ hại này cũng không giữ được lâu. Vì lẽ, khi anh thấy cô thoáng ngước lên nhìn, một tia nhìn trong sáng cô dành cho người đoạt được cô, tự anh biết rằng anh đã bị quên lãng. Có một lần, cô đã gửi lên anh cùng tia nhìn này. Thực ra, sự lừa dối của anh đã vỡ vụn, mọi chống đỡ đều không còn. Thế thì tại sao cuộc tình lại chấm dứt? Không có bất hoà giữa hai người, không có gì cả.

Cả nghìn lần anh đã duyệt lại trong tâm trí anh sự việc xảy ra trong những ngày cuối cùng trước khi mọi chuyện đều bị đảo lộn.

Cô luôn khăng khăng muốn tung anh lên mây xanh và anh đã chấp nhận việc này với vẻ huy hoàng. Hương hoa cô dâng lên thật ngọt ngào, thật khiêm tốn (anh tự nhủ như thế), đầy tính trẻ con và đầy vẻ tôn thờ và (có lần anh đoán chắc như thế) thật thành khẩn. Cô đã gán ghép cho anh, đến mức gần như siêu nhiên, mọi đức tính và mọi xuất chúng và mọi tài năng, rồi anh đã hấp thụ việc hiến dâng như thể cây cối sa mạc thu lấy những giọt mưa mà không chắc sẽ nở hoa hay kết trái.

Trysdale hồi tưởng lại rõ ràng một kỷ niệm đỉnh cao về tính tự kiêu của anh - đầy ngu xuẩn nhưng hối tiếc thì đã muộn.

Đấy là vào một buổi tối khi anh mời cô lên mây xanh và chia sẻ sự vĩ đại của mình. Giờ thì anh quá đau đớn nên không muốn nhớ lại nhiều về vẻ đẹp đầy thuyết phục của cô tối hôm ấy - mái tóc lượn sóng buông thả, mãnh lực lôi cuốn dịu dàng và trinh nguyên của những tia nhìn và lời nói của cô. Trong khi chuyện trò với nhau, cô nói:

- Và Thuyền trưởng Carruthers đã cho em biết là anh nói tiếng Tây Ban Nha như người bản xứ. Tại sao anh giấu em một tài năng như thế? Có việc gì mà anh không biết không?

- Thực ra, Carruthers là một anh dốt. Chắc chắn là anh (Trysdale) đã mang tội (đôi lúc anh như thế) thốt lên trong câu lạc bộ của anh một câu châm ngôn nào đấy bằng tiếng Tây Ban Nha mà anh đã moi ra từ mấy thứ hổ lốn trên bìa sau các quyển từ điển. Carruthers, vốn là một trong những người ngưỡng mộ anh hết mình, chính là người đã phóng đại việc phô trương cho một óc thông thái đáng nghi ngờ.

Nhưng hỡi ôi! Hương hoa từ lòng ngưỡng mộ của cô đã trở nên quá ngọt và quá bốc! Anh để cho lời gán ghép lan truyền ra mà không đính chính. Không phản đối gì cả, anh đã cho phép cô choàng quanh vầng trán anh cái vòng miện giả hiệu về nền uyên bác Tây Ban Nha. Anh đã để cái vòng miện xoắn xít mềm dịu tô điểm cho cái đầu thích chinh phục của anh, mà không cảm thấy có những gai nhọn đang châm chích và sau này sẽ xuyên thủng cả anh.

Cô thật là vui tươi, thẹn thùng và dè dặt làm sao ấy! Cô đã vùng vẫy như con chim bị đánh bẫy khi anh đã đem mọi thứ trọng đại của anh ra đặt dưới chân cô! Anh đã có thể đoán chắc, và giờ anh vẫn đoán chắc mà không nhầm lẫn, là cô đã chấp nhận anh. Chỉ có điều cô không thể trả lời trực tiếp cho anh, vì cô còn e thẹn. Cô bảo: “Ngày mai em sẽ gửi anh câu trả lời” và anh, kẻ chiến thắng buông thả tự tin, đã mỉm cười ban cho cô quyền được trễ hạn.

Ngày kế, anh nóng nảy trông chờ câu trả lời của cô. Đến trưa, anh nài ngựa của cô đến gõ cửa phòng anh, rồi để lại cây xương rồng lạ lùng trong cái bình đất nung đỏ. Không hề có tờ thư hay lời hay lời nhắn, chỉ có chiếc thẻ cột vào cây xương rồng mang một danh từ ngoại ngữ man di hoặc là một tên thực vật. Anh đã chờ cho đến tối, nhưng vẫn không nhận được câu trả lời của cô. Tự ái to phồng và tính phù phiếm bị thương tổn khiến anh không muốn đến tìm cô. Hai ngày sau, họ gặp lại nhau trong một bữa ăn tối. Họ chào hỏi nhau theo cách bình thường, nhưng cô nhìn anh, ngừng thở, băn khoăn, giận dữ. Anh lịch sự khăng khăng chờ nghe cô giải thích. Với tính nhạy cảm của phụ nữ, cô đoán ra ý anh, rồi trở nên lạnh lùng như băng tuyết. Từ ngày ấy, họ rời xa nhau dần. Anh đã có lỗi chỗ nào? Lỗi thuộc về ai? Giờ trở nên khiêm tốn, anh tìm kiếm câu trả lời giữa những hoang tàn của việc tự thổi phồng.

Tiếng nói của người thanh niên kia tọc mạch chen vào luồng hồi tưởng:

- Này, Trysdale, có chuyện gì vậy? Cậu có vẻ đau khổ cứ như chính cậu là chú rể thay vì chỉ đóng vai phù rể! Nhìn tớ đây này, một món phụ tùng khác, đã đi hai nghìn dặm suốt từ Nam Mỹ trên một chiếc tàu đầy tỏi và gián để nhắm mắt làm ngơ sự hy sinh - hãy nhìn xem tội lỗi tớ chất nhẹ như thế nào trên hai vai! Tớ chỉ có một đứa em gái và giờ nó đã đi. Này, uống tí gì đi để xoa dịu lương tâm của cậu.

- Tớ không muốn uống gì trong lúc này, cảm ơn.

Anh bạn đi đến gần anh, tiếp tục:

- Rượu cô-nhắc của cậu tồi quá. Ngày nào đấy chạy xuống Punta Redonda để gặp tớ và thử mấy thứ ông già Garcia mang lậu vào. Chuyến đi đáng công lắm. A này! Gặp lại cố nhân ở đây! Cậu đào đâu ra cây xương rồng này thế, Trysdale?

- Món quà từ một người bạn. Có biết loài cây này không?

- Biết rõ lắm chứ! Nó thuộc miền nhiệt đới. Có hàng trăm cây mọc quanh Punta. Tên nó ghi trên cái thẻ đây này. Có biết một chữ Tây Ban Nha nào không, Trysdale?

Trysdale đáp, với bóng ma cay đắng của một nụ cười:

- Không. Đấy là tên Tây Ban Nha à?

- Đúng thế. Dân bản xứ mường tưởng là những chiếc lá của nó vươn dài để ra hiệu cho ta. Họ gọi nó bởi tên này - Ventomarme. Tên có nghĩa là "Hãy đến mang tôi đi".

**********************************
END
GemLeaf is offline  

Old 22-02-2006, 08:20  

kBank Manager
 
Join Date: 24-04-2004
Posts: 2.502
KL$ (TOP! 28): 4.298
Awarded 58 time(s)
Sent 329 thank(s)
Received 236 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A3 (2003-2006)
Location: Where the 4-leaf-clover grows ^__*

Sis thì chỉ thích đọc mấy truyện nhẹ nhàng và tình cảm như của Đông Vy, Phan Hồn Nhiên, Chu Thu Hằng..., hoặc bất ngờ có nhiều ý nghĩa như của O'Henri.
Sis định post tặng em truyện "Chiếc vòng đồng đen" của Phan Hồn Nhiên, nhưng mà post mất rồi ^^. Mấy truyện sis rất thích, sis cũng post hết rùi.
À, tặng em truyện "Khi Núi Thò Chân Xuống Biển" nhé. Ko biết tác giả là ai, nhưng truyện này sis thấy rất đặc sắc. Ko biết là em đã đọc chưa?



------------------------------
Nobody falls in love by choice, it is by chance.
Nobody stays in love by chance, it is by work : )
Midori is offline  

Old 25-02-2006, 19:55  

Phá sản!
 
Join Date: 07-07-2005
Posts: 758
KL$: 0
Location: Vùng đất của những con người kỳ lạ

toàn chuyện của O'Henry ?? viết nhiều thế sao
shinichi1988 is offline  

Old 01-03-2006, 16:36  

V.I.P
 
Join Date: 10-09-2005
Posts: 1.651
KL$: 556
Awarded 32 time(s)
Sent 11 thank(s)
Received 12 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A14 (2005-2008)
Location: Một ngôi nhà, bão dừng sau cánh cửa :)

Gem cho Bee post zới nhá! :p

Khi người ta yêu


Dịch giả: Đắc Lê



Khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì không có việc gì tựa như là quá khó.
Đó là tiền dề câu chuyện của chúng tôi. Qua truyện này, chúng ta sẽ rút ra được một kết luận từ tiền đề dó, đồng thời cũng chứng tỏ tiền đề đó không đúng. Đó là một điều mới mẻ về lô-gích và là một nghệ thuật kể chuyện có phần nào còn cổ hơn cả Vạn lý trường thành của Trung Quốc.
Giô Lerơbi ra đời ở vùng đồng bằng có nhiều cây sồi cổ thụ thuộc miền Mítđơn Oét, trong lòng rung động những xúc cảm hội họa. Hồi sáu tuổi, Giô vẽ một bức tranh về cái máy bơm của thành phố, có một công dân danh tiếng vội vã đi ngang qua. Sự nỗ lực này được đóng vào khung và treo ở tủ kính một hiệu thuốc, đứng bên cạnh bông lúa mì và một dãy số lẻ. Hai mươi tuổi, chàng rời quê hương lên Niu Yoóc, với một chiếc nơ thắt lỏng lẻo và một số tiền lưng buộc chặt hơn đôi chút.
Điliơ Cơradơ quê ở một làng miền Nam, trồng rất nhiều thông. Nàng lướt đôi tay trong sáu khoảng tám trên phím đàn dương cầm một cách đầy hứa hẹn đến nỗi họ hàng thân thuộc cố góp nhặt đủ những đồng tiền mỏng đặt trong cái mũ mỏng của nàng để cho nàng lên miền Bắc theo nốt việc học đàn. Họ sẽ chẳng thấy nàng theo nốt được việc học hành, nhưng đó lại là câu chuyện của chúng ta.
Giô và Điliơ gặp nhau trong một xưởng vẽ, một số sinh viên nghệ thuật và âm nhạc thường họp nhau ở đó để tranh luận về cách vẽ phối hợp màu sáng vả tối, về Vácne (1), âm nhạc, tác phẩm của Rembrăng (2), tranh vẽ và Uôntoiphơn, giấy trang trí tường, Sôpanh và chè hương Ô long.
Giô và Điliơ yêu nhau - hay là người nọ yêu người kia, tuỳ các bạn, - và chỉ sau một thời gian ngắn, họ đã lấy nhau, vì, xin hãy xem ở đoạn trên, khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì không có việc gì tựa như là quá khó.
Hai vợ chồng Lorơbi bắt đầu công việc tề gia nội trợ trong một gian gác. Đó là một gian riêng biệt, trông na ná như một nốt la giáng chúc cái đuôi xuống phím đàn dương cầm. Họ sống rất hạnh phúc, vì họ đều có Nghệ thuật của mình và người này có người kia ở bên. Tôi khuyên chàng thanh niên giàu có hãy đem bán tất cả những thứ gì mình có để lấy tiền cho người nghèo, hãy làm một người gác cổng để được hưởng đặc quyền sống trong một gian nhà cùng với Nghệ thuật và với Điliơ của mình.
Những người sống trong một gian nhà như vậy nhất định sẽ xác nhận lời quả quyết của tôi rằng hạnh phúc của họ là hạnh phúc duy nhất thật sự. Nếu một căn nhà hạnh phúc thì không bao giờ quá chật hẹp, hãy hạ cái tủ áo nằm xuống thành một bàn bi-a, hãy để bệ lò sưởi trở thành một xuồng máy, bàn viết thành một buồng ngủ dự phòng, chậu rửa mặt thành đàn dương cầm loại dây thẳng đứng; hãy để bốn bức tường hoà hợp với nhau để bạn và Điliơ của bạn sống ở giữa. Nhưng nếu một căn nhà thuộc loại khác thì nó cần phải rộng lớn, bạn bước vào ở Cồng Vàng (4), treo mũ tại Hetơrớt (5), treo áo choàng ở Onót (6) và ra khỏi nhà ở Labrađo (7).
Giô đang học vẽ ông Medixtơ danh tiếng, chắc bạn cũng biết tiếng ông ta. Học phí cao, bài học nhẹ nhàng, những cái đó cùng với những điểm sáng nhất trên bức tranh đã nhẹ nhàng đưa ông Medixtơ tới đỉnh cao danh tiếng. Điliơ theo học ông Rôdơnxtốc, chắc bạn từng biết ông ta nổi danh là một người gây được bão táp trên những phím đàn dương cầm như thế nào rồi.
Chừng nào tiền nong vẫn còn, họ rất hạnh phúc. Tất cả… đều là như vậy - nhưng tôi không phải là người thích chỉ trích đâu. Mục đích của họ rất rõ ràng, đã được xác định, Giô phái sớm sáng tác được những bức tranh mà những ông già lịch sự, có bộ ria mép mỏng dính và những quyển sổ tay dày cộp sẽ cùng nhau bao vây xưởng vẽ của chàng để giành được đặc quyền mua tranh. Điliơ sẽ phải luyện tập cho thật quen thuộc với nàng âm nhạc, rồi có thể coi thường nàng âm nhạc để khi nhìn thấy những chỗ ngồi gần dàn nhạc và những lô không bán được vé thì Điliơ sẽ kêu đau cổ họng, ăn tôm hùm trong buồng ăn riêng ở nhà và từ chối việc bước lên sân khấu.
Nhưng tốt nhất, theo tôi, là cuộc sống gia đình trong một gian nhà nhỏ: những cuộc trò chuyện linh hoạt, thắm thiết sau một ngày làm việc, những bữa ăn ấm cúng và những bữa điểm tâm ngon lành, nhẹ nhàng; các cao vọng kế tiếp nhau, cao vọng này xen lẫn vào cao vọng khác, sự giúp đỡ lẫn nhau và cảm hứng tương đồng, và, xin bỏ qua sự vô nghệ thuật của tôi, những cái bánh xăng-đuých kẹp đầy pho-mát trộn ô-liu vào lúc mười một giờ khuya.
Nhưng sau một thời gian ngắn, con tàu nghệ thuật đi chậm lại. Đôi khi xảy ra như vậy, ngay cả khi người bẻ ghi nào đó chưa vẫy cờ ra hiệu ngừng. Mọi thứ đều đội nón ra đi mà không có cái gì bước về nhà cả, như những người tầm thường thường nói. Họ thiếu tiền trả học phí cho ông Medixtơ và ông (8) Rôdơnxtốc. Khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì không có việc gì tựa như là quá khó. Vì thế, Điliơ bảo rằng nàng phải đi dạy nhạc để giữ được tiếng bát đĩa vẫn vang lên trong nhà.
Nàng ra phố hai ba ngày cố tìm chỗ dạy nhạc. Một buổi tối, nàng mừng rỡ về nhà.
“Anh Giô thân yêu ơi, - nàng vui vẻ lên tiếng, - em đã có một học sinh rồi. Trời, những người đáng yêu nhất đời! Con gái viên tướng… tướng A.B. Pinhcơni... ở phố Bảy mươi mốt (9). Một toà nhà tráng lệ vô cùng, anh Giô ạ... anh phải nhìn thấy cái cửa phía trước! Bidăngtin (10), em nghĩ rằng hẳn anh sẽ gọi như thế. Còn ở trong nhà nữa chứ! Trời, anh Giô ơi, em chưa từng bao giờ trông thấy một nơi nào như thế.
Cô học trò của em tên là Clemơntin. Em đã mê cô bé quá đi rồi. Cô bé thật mảnh dẻ..., bao giờ cũng mặc đồ trắng, cử chỉ rất mực dịu dàng, hết sức giản dị! Mới chỉ mười tám tuổi. Em sẽ dạy ba buổi một tuần. Anh thử đoán xem, anh Giô! Mỗi buổi năm đôla. Em không băn khoăn chút nào đâu, vì hễ có được hai ba em học trò nữa thì em lại tiếp tục học ông Rôdơnxtốc. Nào hãy xoá những nếp nhăn trên trán đi, anh thân yêu, chúng ta sẽ ăn một bữa thật tuyệt nhé”.
- Em Điliơ, với em, thế là ổn đấy, - Giô vừa nói vừa dùng con dao ăn và cái thìa tấn công vào hộp đỗ, - nhưng còn anh. Em nghĩ là anh bằng lòng cho em đi chen vai thích cánh để kiếm tiền, trong lúc anh vẫn vui chơi quanh quẩn trong những miền nghệ thuật cao quý ư? Không bao giờ em ạ, anh thề trên đống xương của Benvenutô Xêlini (11). Anh nghĩ rằng mình có thể đi bán báo hoặc làm công nhân rải đường dề kiếm lấy một hai đôla.
Điliơ bước lại gần, đu vào cổ chồng:
- Anh Giô thân yêu, anh ngốc nghếch quá. Anh phải tiếp tục theo học. Không phải là em từ bỏ âm nhạc để đi làm việc khác đâu trong lúc dạy nhạc, em vẫn học. Em vẫn luôn luôn gần gũi âm nhạc của em. Với mười lăm đôla một tuần, chúng ta có thề sống sung sướng như những nhà triệu phú. Anh không được nghĩ đến việc bỏ học ông Medixtơ.
- Được rồi, nhưng anh không muốn em phải đi dạy học. Đó không phải là nghệ thuật. Làm như thế, em thật tốt quá.
- Khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì không có việc gì tựa như là quá khó.
- Ông Medixtơ đã khen ngợi cái nền trời trong bức phác họa anh vẽ ở công viên. Và ông Tincơn đã đồng ý cho anh treo hai bức tranh tại tủ kính bày hàng của ông ta. Có thể anh sẽ bán được một bức, nếu may ra có một tên ngu ngốc sẵn tiền nào đó nhìn thấy những bức tranh đó.
- Em tin anh nhất định bán được tranh, - Đíliơ dịu dàng nói. - Còn bây giờ thì chúng ta hãy cảm ơn viên tướng Pinhcơni và món thịt bê rán của ông ta.
Suốt cả tuần tiếp đó, hai vợ chồng Lerơbi đều ăn điểm tâm sớm. Giô đang say sưa vẽ ở công viên Trung ương (12) những bức kí hoạ rất cần đến ánh mặt trời buổi sáng. Điliơ nấu nướng cho Giô ăn no nê trước khi chàng đi, khen ngợi và hôn chàng vào lúc bảy giờ. Nghệ thuật là một bà chủ gia đình thu phục được lòng người. Chàng phần nhiều về nhà vào lúc bảy giờ tối.
Cuối tuần, Điliơ hân hoan thắng lợi tung ba tờ năm đôla lên giữa cái bàn kích thước 8 x 10 insơ trong căn phòng khách kích thước 8 x 10 bộ. Nàng nói, vẻ hơi mệt mỏi:
“Em mệt vì Clemơntin. Em sợ cô ta không tập luyện chuyên cần, dạy một đoạn nhạc, em phải bảo đi bảo lại nhiều lần. Cô ta bao giờ cũng mặc toàn đồ trắng, mặc như thế thì phải tẻ nhạt thôi. Nhưng tướng Pinhcơni là một ông già đáng quý nhất! Em muốn anh quen biết ông ta, anh Giô ạ. Thỉnh thoảng ông ta đến chỗ em và Clemơntin ở bên cạnh đàn pianô, - anh biết không, ông ấy góa vợ - và đứng ở đấy, tay vuốt chòm râu trắng xoá. Ông ta bao giờ cũng hỏi: “Những nốt móc đôi, móc ba tiến bộ đến đâu rồi?”
Anh Giô ạ, em muốn anh nhìn thấy lớp ván lót ngoài mặt tường trong căn phòng khách đó. Và những cái rèm cửa Atrakhan (13) nữa chứ! Clemơntin húng hắng ho, rất ngộ nghĩnh. Em mong cô ta được khoẻ hơn vẻ bề ngoài của cô ta.
Ồ, em đã thực sự quấn quýt cô ta rồi, cô ta rất dịu dàng, dòng dõi cao quý. Người anh của tướng Pinhcơni đã có lần làm đại sứ ở Bôlivia”.
Còn Giô, với dáng điệu của Môngtơ Crixtô, rút ra mấy tờ giấy bạc: một tờ mười đôla, một tờ năm, một tờ hai và một tờ một đôla, tất cả đều mới tinh. Chàng đặt bên cạnh món tiền của Điliơ, và báo tin:
- Bán được bức tranh màu nước vẽ cái đài kỉ niệm hình bút tháp cho một người ở thành phố Piơriơ rồi, em ạ!
- Anh đừng nói đùa với em, không phải ở Piơriơ.
- Đúng ở đấy mà. Anh ước gì em trông thấy ông ta, em Điliơ ạ. Một ông béo phệ, quàng một cái khăn len to tướng và có một cái tăm bằng lông nhím. Ông ta nhìn thấy bức tranh ở tủ kính của ông Tincơn. Thoạt tiên, ông ta tưởng là vẽ cái cối xay gió, nhưng dù sao ông ta cũng đã mua bức tranh. ông ta đặt một bức nữa... một bức tranh sơn dầu vẽ kho hàng Léccơuônnơ để mang theo về... Những giờ dạy nhạc! Ồ, anh nghĩ trong đó vẫn còn đôi chút Nghệ thuật.
Điliơ niềm nở nói:
- Em rất sung sướng thấy anh vẫn tiếp tục học. Anh nhất định thành công đấy, anh thân yêu ạ. Ba mươi ba đôla. Từ trước đến nay, chưa bao giờ chúng ta có nhiều tiền như thế này. Tối nay, chúng ta sẽ ăn sò huyết.
Tối thứ bảy sau, Giô về nhà trước. Chàng trải mười tám đôla lên trên mặt bàn trong phòng khách, rồi đi rửa những vết bẩn, tựa như thuốc vẽ màu sẫm, bám đầy tay.
Nửa giờ sau, Điliơ về, bàn tay phải của nàng quấn trong bó băng và vải xô, chẳng ra hình thù gì cả.
Sau câu chào hỏi thường lệ, Giô hỏi :
- Sao lại thế này, em Điliơ?
Điliơ cười, nhưng không vui lắm. Nàng giải thích:
- Sau buổi học, Clemơntin cứ năn nỉ mời em ăn bánh mì nướng, rưới bơ nóng. Một cô gái kì khôi thế đấy! Bánh mì nướng, rưới bơ nóng vào lúc năm giờ chiều. Tướng Pinhcơni cũng có mặt. Giá anh thấy ông ta tíu tít lấy đĩa ăn hâm nóng, anh Giô ạ, cứ như trong nhà không có một người đầy tớ nào ấy. Em biết Clemơntin không được khoẻ lắm, cô ta rất hay xúc động. Lúc rưới bơ, cô bé đánh đổ rất nhiều nước bơ sôi lên bàn tay và cổ tay em. Rát ghê lắm, anh Giô ạ. Clemơntin rất hối hận! Còn tướng Pinhcơni!... Anh Giô ạ, ông ta cuống lên. Ông ta lao xuống cầu thang, - người ta nói là người đốt lò hay người nào đó trong tầng hầm ấy ra hiệu thuốc mua dầu và các thứ để băng tay cho em. Bây giờ thì không rát lắm dâu.
- Thế cái này là cái gì? - Giô hỏi, dịu dàng cầm bàn tay Điliơ và kéo mấy sợi vải màu trắng nằm dưới đám băng.
- Cái vải gì mềm mềm đã thấm dầu ấy mà. Ờ, anh Giô này, anh đã bán được bức tranh nữa đấy à? - Điliơ nhìn thấy món tiền trên bàn.
- Anh đã bán được ư? Chính cái ông ở thành phố Piơriơ. Hôm nay, ông ta lấy bức tranh vẽ kho hàng đã đặt trước ấy mà. Tuy không chắc chắn lắm, nhưng ông ta nghĩ là sẽ mua thêm một bức tranh vẽ cảnh công viên và một cảnh trên sông Hắtxơn (14). Chiều nay, em bị bỏng tay vào lúc mấy giờ, em Đili (15) nhỉ?
- Lúc năm giờ, - Điliơ ta thán - Cái bàn là... em định nói bơ nóng lấy ra khỏi lò vào khoảng giờ đó. Anh Giô ơi, anh nên gặp tướng Pinhcơni, khi...
- Em Đili, em hãy ngồi xuống đây một lát đã, - Giô nói, chàng dìu vợ ngồi xuống giường, rồi ngồi bên cạnh ôm lấy vai nàng, chàng hỏi: “Em đã làm gì trong hai tuần vừa rồi, em Đili?”
Nàng giữ được can đảm một lát, khoé mắt tràn đầy tình yêu và sự bướng bỉnh, nàng lẩm nhẩm một hai câu mơ hồ về tướng Pinhcơni. Nhưng rồi nàng cúi đầu, sự thật trào ra theo dòng nước mắt.
- Em không có một em học trò nào cả, - nàng thú nhận. - Thấy anh phải bỏ học, em không thể nào chịu được. Em nhận việc là sơ-mi trong xưởng là rất to ở phố Hai mươi bốn ấy. Em nghĩ rằng việc sáng tạo ra tướng Pinhcơni và cô bé Clemơntin lả rất khéo, có phải không anh Giô? Chiều nay, một cô gái trong xưởng lỡ đặt chiếc bàn là nóng lên tay em. Suốt trên đường về nhà, em sáng tác ra câu chuyện bánh mì nướng, rưới bơ nóng. Anh không giận em chứ, anh Giô? Nếu em không tìm được việc làm, anh đã không thể bán được tranh cho cái ông ở thành phố Piơriơ.
- Ông ta không ở Piơriơ đâu, - Giô chậm rãi đáp.
- Ờ, ông ta ở đâu đến cũng chẳng hề gì. Anh thông minh quá, anh Giô… và… anh hôn em đi, anh Giô… làm sao mà anh lại đoán ra là em không dạy nhạc cho cô bé Clemơntin?
- Phải đến tối nay anh mới đoán được. Từ trước, anh không đoán ra, ngay cả lúc chiều nay lúc từ phòng máy, anh gửi thứ vải vụn và dầu này lên cho một cô ở tầng trên bị bàn là làm bỏng tay. Hai tuần vừa rồi, anh đốt lò ở chính cái xưởng giặt là đó.
- Thế ra anh không...
- Cái ông ở thành phố Piơriơ đã mua tranh và tướng Pinhcơni đều là hai tác phầm của cùng một nghệ thuật... nhưng em không thể gọi đó là hội hoạ hoặc âm nhạc được đâu.
Giô và Điliơ cùng cười. Giô bắt đầu:
- Khi người ta yêu Nghệ thuật của mình thì không có việc gì tựa như là…
Nhưng Điliơ đặt tay lên môi Giô, ngăn chàng lại:
- Không. Chỉ cần: “Khi người ta yêu”./.




Dịch giả: Đắc Lê

Chú thích:
(1) Vácne (1813 - 1883): nhạc sĩ Đức.
(2) Rembrăng (1616 - 1669): hoạ sĩ Hà Lan danh tiếng.
(3) Sôpanh (1810 - 1849) : nhạc sĩ Ba Lan vĩ đại.
(4) Cổng Vàng: eo biển rộng hai dặm ở phía tây Caliphonia, nối vịnh Xan Phranxixcô với Thái Bình Dương.
(5) Hetơrớt: một hòn đảo ở phía bắc Carôlina nằm giữa eo biển Penlicơ và Thái Bình Dương.
(6) Onót: mũi đất ở phía nam Chilê, điểm cực nam của Nam Mỹ (vĩ tuyến 55o59' nam).
(7) Labrađo: bán đảo ở phía đông Canađa, nằm giữa vịnh Hắtxơn và Thái Bình Dương.
(8) Nguyên vãn bằng tiếng Đức: Merr.
(9) Phố Bảy mươi mốt: trong khu Manhattan.
(10) Bidăngtin: thành phố thời xưa, nổi tiếng về kiến trúc lộng lẫy, tráng lệ.
(11) Benvenutô Xêlini (1500 - 1571): nhà điêu khắc và nhà kim hoàn Ý nổi tiếng.
(12) Công viên Trung ương: công viên rất lớn ở giữa khu Manhattan, khu trung tâm của thành phố Niu Yoóc.
(13) Atrakhan: một thành phố ở Nga, nổi tiếng về các loại rèm cửa.
(14) Môngtơ Crixtô: nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết Bá tước Môngtơ Crixtô của Alêchxăng Đuyma.
(15) Hắtxơn: dòng sông ở đông bắc nước Mỹ, chảy qua Niu Yoóc, đổ ra Đại Tây Dương, dài 500 km.
(16) Đili: tên gọi thân mật thay cho Điliơ



------------------------------
Ta sẽ nhắn ngàn lau phơ phất trắng
Khe khẽ giùm kẻo gió cuốn em đi
angry_bee is offline  

Old 01-03-2006, 16:38  

V.I.P
 
Join Date: 10-09-2005
Posts: 1.651
KL$: 556
Awarded 32 time(s)
Sent 11 thank(s)
Received 12 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A14 (2005-2008)
Location: Một ngôi nhà, bão dừng sau cánh cửa :)

Những con đường chúng ta chọn


Đoàn tàu tốc hành buổi chiều dừng lại bên trạm bơm nước cách Tăcxơn hai mươi dặm về phía tây để lấy nước. Ngoài nước ra, chiếc đầu máy của con tàu nhanh nổi tiếng này còn mang theo đôi thứ không lấy gì làm bổ ích lắm cho nó.
Trong lúc anh thợ đốt lò tháo chiếc vòi mềm dẫn nước thì Bôp Tiđbon, “Cá mập” Đôtxơn và một người lai da đỏ từ bộ lạc Cricơ biệt hiệu Giôn Đại Cẩu trèo lên đầu máy và chĩa ba đầu lỗ tròn của khẩu súng cá nhân vào các lái tàu. Điều này đã gây cho bác lái tàu một ấn tượng mạnh đến nỗi ngay tức khắc bác ta giơ hai tay lên trời, giống như người ta vẫn làm khi kêu lên: “Ô hay! Không thể như vậy được”. Theo mệnh lệnh ngắn gọn của “Cá mập” Đôtxơn - tên cầm đầu toán cướp, bác lái tàu bước xuống đường ray và tách đầu máy và toa chở than ra. Rồi Giôn Đại Cẩu trèo lên đống than, nghịch ngợm chĩa hai khẩu súng lục vào bác lái tàu và anh thợ đốt lò, ra lệnh cho họ lái đầu máy chạy cách xa đoàn tàu năm mươi yat và đợi lệnh tiếp theo.
“Cá mập” Đôtxơn và Bôp Tiđbon không thèm đếm xỉa đến thứ quặng nghèo vàng như đám hành khách. Chúng tiến thẳng về phía mỏ hạt sa khoáng ở trong toa thư. Viên trưởng toa trở tay không kịp. Ông này vẫn hoàn toàn tin tưởng là chuyến tàu tốc hành buổi chiều đã không thu nhận gì tai hại và nguy hiểm hơn nước lã. Trong lúc Bôp Tiđbon dùng cán của khẩu côn đánh bật sự nhầm lẫn nguy hại này ra khỏi đầu ông ta, “Cá mập” Đôtxơn không để phí thời gian, đã đặt khối thuốc nổ xuống dưới chiếc két sắt của tem thư.
Chiếc két sắt nổ vỡ toang đã cho ra ba mươi ngàn đôla lợi nhuận ròng bằng vàng và tín phiếu. Đây đó các hành khách thò cổ ra ngoài cửa sổ xem tiếng sấm rền vang này ở đâu ra. Viên phó tàu giật dây chuông, nhưng cái dây thừng, treo lơ lửng một cách không sinh khí, không thể hiện bất kì sự phản ứng nào. Quẳng những thứ ăn cướp được vào chiếc túi vải bạt chắc chắn, “Cá mập” Đôtxơn và Bôp Tiđbon nhảy xuống đất và chạy về phía đầu máy, chân vấp lia lịa trong những đôi giày gót cao.
Bác lái tàu, tuy hằm hằm nhưng vẫn ngoan ngoãn tuân theo lệnh của chúng, đã cho đầu máy chạy xa khỏi đám toa xe bất động. Nhưng trước đó viên trưởng toa thư, như bừng tỉnh khỏi cơn thôi miên, đã nhảy bổ đến một mô đất với khẩu súng trường Uynchextơ trong tay và tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu. Giôn Đại Cẩu đã đi sai một nước cờ là ngồi trên toa than: hắn để lộ mình dưới luồng đạn và viên trưởng toa đã cho hắn ăn kẹo đồng ngay lập tức. Tên lục lâm cướp đường ngã lăn xuống đất vì bị viên đạn đúng giữa hai bả vai, và như vậy là phần ăn cướp được của mỗi tên đồng bọn của hắn đã tăng lên một phần sáu.
Cách trạm bơm nước hai dặm, bác lái tàu được lệnh dừng lại. Bọn cướp phẩy tay chào bác ta một cách khiêu khích và nhảy xuống theo một sườn dốc dựng đứng, rồi mất hút trong đám bụi cây rậm dày đặc bao quanh con đường. Năm phút sau, đi xuyên qua các bụi cây choparan làm cành cây gãy răng rắc, chúng đã có mặt ở chỗ rừng thưa, ở đó có ba con ngựa đã được buộc sẵn vào những cành cây thấp. Một con trong số đó đang đợi Giôn Đại Cẩu mà bây giờ bất kể ngày cũng như đêm, không bao giờ hắn còn được cưỡi trên mình nó nữa. Sau khi tháo yên cương của con ngựa này, bọn cướp thả nó ra. Quẳng chiếc túi lên mỏ yên, chúng cưỡi lên hai con còn lại và phi vút đi, nhưng mắt vẫn láo liên nhìn quanh. Thoạt tiên chúng phóng qua một khu rừng, rồi sau đó qua một hẻm vực hoang dại, vắng ngắt. Đến đây con ngựa của Bôp Tiđbon bị trượt trên một hòn đá bám đầy rêu và gãy một chân trước. Ngay tức khắc chúng bắn chết nó và ngồi xuống họp bàn. Đã đi được một đoạn đường dài, quanh co nên tạm thời chúng vẫn còn được an toàn, không cần phải vội vã. Những dặm đường và khoảng thời gian lớn đã ngăn cách chúng với ngay cả cuộc truy đuổi nhanh nhất. Lê sợi dây cương trên mặt đất và lắc lư mạng sườn, con ngựa của “Cá mập” Đôtxơn ngoan ngoãn gặm cỏ bên bờ suối. Bôp Tiđbon mở cái túi, và vừa cười như một đứa bé con, hắn vừa móc ra những cọc tín phiếu mới toanh được dán cẩn thận và một túi vàng con duy nhất.
- Hãy nghe đây, tên cướp già đời kia, - hắn vui vẻ gọi Đôtxơn, - thế mà hoá ra mày có lí, công việc vậy là rất suôn sẻ. Chà, cái đầu của mày, đúng là đầu bộ trưởng tài chính. Với bất cứ ai ở Arizen này cũng có thể chấp cả một trăm điểm được đấy.
- Chúng ta làm gì với con ngựa bây giờ hả Bôp? Không nên ngồi lâu ở đây. Trước lúc rạng đông bọn họ sẽ đuổi theo chúng ta.
- Hừm, con Bôliva của mày tạm thời cũng mang được cả hai đứa. - Bôp vui vẻ trả lời. - Chúng ta sẽ chiếm lấy con ngựa nào bắt gặp đầu tiên. Mẹ kiếp, mẻ này cũng khá đấy chứ, phải không mày? Nếu tin vào dòng chữ được in trên giấy thì chỗ này là ba mươi ngàn, mỗi thằng mười lăm ngàn.
- Tao nghĩ sẽ hơn thế cơ đấy, - dùng mũi giày khẽ đá vào bọc tiền, “Cá mập” Đôtxơn nói. Và hắn trầm ngâm nhìn hai bên sườn ướt đẫm của con ngựa mệt mỏi của hắn.
- Con Bôliva già nua gần kiệt sức rồi. - Hắn nói rành rọt từng chữ. - Tiếc là con ngựa hồng của mày gãy mất một chân.
- Còn phải nói, - Bôp hồn nhiên đáp lời, - nhưng làm gì được với nó bây giờ. Con Bôliva của mày còn khoẻ. Nó sẽ đưa chúng ta đến nơi cần thiết, và ở đó ta sẽ thay ngựa. Mẹ kiếp, mà kể cũng buồn cười, mày từ miền đông tới, xa lạ với vúng này, còn chúng tao ở miền tây, ngay tại quê nhà, thế mà chúng tao không đáng đi xách dép cho mày. Mày từ bang nào nhỉ?
- Bang Niu-Yooc, - ngồi xuống tảng đá tròn và nhai một cành cây, “Cá mập” Đôtxơn đáp lại. - Tao sinh ra tại một điền trang vùng Onxtơ. Năm mười bảy tuổi tao bỏ nhà ra đi. Và tình cờ tao đã lọt đến miền tây. Với gói hành lí trong tay tao đi trên đường, những mong tới được Niu-Yooc. Tao nghĩ rằng tới được đó tao sẽ bắt đầu đi kiếm tiền. Tao luôn có cảm tưởng rằng tao sinh ra là để làm việc đó. Tao tới một ngã ba đường và không biết nên đi theo ngả nào. Suốt nửa giờ tao nghĩ ngợi quẩn quanh, rồi sau đó tao ngoặt sang bên trái. Đến tối thì tao đuổi kịp một gánh xiếc rong và thế là đi cùng với họ về miền tây. Tao vẫn thường nghĩ, cái gì sẽ xảy ra với tao nếu như lúc ấy tao chọn con đường khác?
- Theo tao, cũng sẽ như vậy thôi. - Bôp Tiđbon trả lời một cách triết lí. - Vấn đề không phải ở con đường chúng ta chọn, mà là ở chính cái nằm trong lòng chúng ta dẫn tới việc chọn con đường.
Đôtxơn đứng dậy và tựa vào một thân cây.
- Tao rất tiếc là con ngựa hồng của mày bị què cẳng, Bôp ạ. - Hắn nhắc lại với vẻ thông cảm.
- Tao cũng vậy, - Bôp đồng ý - con ngựa tuyệt thật. Thôi được, con Bôliva sẽ mang chúng ta đi. Có lẽ, cũng đến lúc khởi hành rồi đấy, “Cá mập” ạ. Bây giờ tao sẽ xếp hết tất cả những cái này vào túi và lên đường. Con cá đi tìm chỗ nước sâu, còn con người thì tìm chỗ nào tốt hơn.
Bôp Tiđbon bỏ những thứ ăn cướp vào túi và buộc chặt lại bằng sợi dây thừng. Vừa ngước mắt lên, hắn nhìn thấy ngay nòng khẩu côn 45 mà cánh tay không hề run rẩy của “Cá mập” Đôtxơn đang chĩa vào hắn.
- Bỏ cái trò đùa ấy đi. - Bôp vừa cười gằn vừa nói. - Đến lúc phải đi rồi.
- Ngồi im tại chỗ! - “Cá mập” nói. - Bôp, mày sẽ không đi khỏi nơi này. Tao rất phiền lòng phải nói ra điều đó, nhưng chỉ có chỗ cho một người. Con Bôliva kiệt sức rồi, nó không thể mang nổi hai đứa.
- Tao với mày là chiến hữu của nhau đã ba năm nay, “Cá mập” Đôtxơn ạ. - Bôp bình tĩnh trả lời. - Chúng ta đã cùng nhau liều mạng không phải chỉ một lần. Tao luôn thành thật với mày, nghĩ rằng mày là một con người. Tao đã nghe đôi điều không tốt về mày, hình như mày đã giết oan hai người chẳng có tội tình gì, nhưng tao không tin. Nếu mày đùa, “Cá mập” ạ, thì hãy cất ngay khẩu côn và chúng ta chạy cho mau. Còn nếu mày muốn bắn, thì bắn đi, đồ đểu, đồ nhện độc!
Bộ mặt của “Cá mập” Đôtxơn lộ vẻ buồn sâu sắc.
- Chắc mày không tin đâu, Bôp ạ, - hắn thở dài, - tao thật lòng tiếc là con ngựa hồng của mày bị gãy chân.
Và bộ mặt của hắn đột nhiên thay đổi - giờ đây nó biểu lộ sự tàn bạo lạnh lùng và lòng tham vô đáy. Trong một phút, tâm hồn của con người này đã lộ ra, giống như đôi khi, bộ mặt của một kẻ ác độc ló ra ngoài cửa sổ một ngôi nhà tư sản đáng kính.
Trong thực tế, số phận đã không cho Bôp rời khỏi chỗ này được nữa. Tiếng súng của thằng bạn phản trắc đã vang lên và các vách đá của hẻm vực đã đáp lại bằng những hồi âm phẫn nộ. Còn kẻ tình cờ đồng loã với tên giết người - con Bôliva đã nhanh chóng mang đi tên cuối cùng trong bọn cướp chuyến tàu nhanh buổi chiều - con ngựa đỡ phải mang tải trọng gấp đôi.
Nhưng khi “Cá mập” Đôtxơn phi ngựa trong rừng, cây cối phía trước hắn dường như bị sương mù che khuất, khẩu súng lục trong tay bỗng biến thành cái tay vịn cong cong của chiếc ghế bành làm bằng gỗ sồi, miếng vải bọc yên thật là kì lạ, và mở mắt ra, hắn nhìn thấy chân hắn đang tì vào không phải là bàn đạp mà là chiếc bàn làm việc bằng gỗ sồi.
Vậy xin nói rằng, Đôtxơn - chủ văn phòng chứng khoán “Đôtxơn và Đêcơ”, phố Uôn đã mở mắt ra. Pibôđi, viên thư kí tin cẩn đang đứng bên chiếc ghế bành, ngập ngừng muốn nói. Dưới cửa sổ tiếng bánh xe lăn ầm ầm, chiếc quạt máy kêu vo vo như ru ngủ.
- Hừm! Pibôđi, - chớp chớp mắt, Đôtxơn nói. - Hình như tôi đã thiếp đi. Tôi đã thấy một giấc mơ cực kì lạ lùng. Có chuyện gì thế, Pibôđi?
- Dạ, thưa ông, ông Uyliam ở hãng “Trexi và Uyliam” đang đợi ông. Ông ta tới để thanh toán mấy cái X, Y, Z. Ông ta bị mắc kẹt với chúng, thưa ông, nếu ông nhớ ra.
- Phải, tôi có nhớ. Thế giá của chúng hôm nay là bao nhiêu?
- Thưa ông, một đôla tám mươi nhăm xu.
- Vậy hãy thanh toán cho ông ta theo giá đó!
- Xin ông tha lỗi, - Pibôđi hồi hộp nói, - tôi đã nói với ông Uyliam. Ông ấy là bạn cũ của ông, thưa ông Đôtxơn, mà ông là người đã mua tất cả X, Y, Z. Tôi thiết tưởng giá ông, nghĩa là… Có lẽ, ông nhớ là ông ấy đã bán chúng cho ông với giá là chín mươi tám xu. Nếu ông ấy phải thanh toán theo giá hiện nay, ông ấy sẽ mất hết cả vốn liếng và đến phải bán cả ngôi nhà của mình.
Bộ mặt của Đôtxơn đột nhiên thay đổi - giờ đây nó biểu lộ sự tàn bạo lạnh lùng và lòng tham vô đáy. Trong một phút, tâm hồn của con người này đã lộ ra, giống như đôi khi, bộ mặt của một kẻ ác độc ló ra ngoài cửa sổ một ngôi nhà tư sản đáng kính.
- Kệ cho ông ta trả với giá một đôla tám mươi nhăm xu. - Đôtxơn nói. - Con Bôliva không thể mang được hai người./.

Trần Thanh Phương dịch



------------------------------
Ta sẽ nhắn ngàn lau phơ phất trắng
Khe khẽ giùm kẻo gió cuốn em đi
angry_bee is offline  

Old 01-03-2006, 16:42  

V.I.P
 
Join Date: 10-09-2005
Posts: 1.651
KL$: 556
Awarded 32 time(s)
Sent 11 thank(s)
Received 12 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A14 (2005-2008)
Location: Một ngôi nhà, bão dừng sau cánh cửa :)

Món quà Giáng sinh

Một đồng tám mươi bảy xu, đúng như vậy. Hàng ngày, cô cố gắng tiêu thật ít tiền khi đi chợ. Cô đi loanh quanh tìm mua thứ thịt và rau rẻ nhất cho bữa ăn hàng ngày, ngay cả lúc cảm thấy hết sức mệt mỏi cô vẫn cố tìm kiếm. Tiết kiệm được đồng nào hay đồng đó.
Della đếm lại số tiền ít ỏi một lần nữa. Không hề có sự nhằm lẫn, chỉ có một đồng tám mươi bảy xu, và ngày mai sẽ là lễ giáng sinh.
Cô sẽ không thể làm gì hơn,chỉ còn cách ngồi xuống và khóc mà thôi. Ở đó, trong một căn phòng nhỏ, tồi tàn, cô đang nức nở.
Della sống trong căn phòng nhỏ nghèo nàn này với chồng của cô, James Dillingham Young, ở thành phố NEW YORK.
Họ có một phòng ngủ, một phòng tắm và một nhà bếp. James Dillingham Young may mắn hơn cô vì anh ấy có việc làm. Tuy vậy đó không phải là một công việc kiếm được nhiều tiền. Tiền thuê căn phòng này chiếm gần hết lương của anh ấy. Della đã cố gắng rất nhiều để tìm một công việc nhưng vận may đã không mỉm cười với cô. Tuy nhiên,cô rất hạnh phúc khi ôm "Jim", James Dillingham Young, trong tay mỗi khi anh trở về.
Della đã ngừng khóc. Cô lau khô mặt rồi đứng nhìn một chú mèo xám trên bức tường đồng màu với nó bên cạnh con đường tối ngoài cửa sổ.
Ngày mai là Noel và cô chỉ còn một đồng tám mươi bảy xu để mua cho Jim, Jim của cô, một món quà. Cô muốn mua một món quà thật sự có ý nghĩa, một thứ có thể biểu hiện được tất cả tình yêu cô dành cho anh.
Della chợt xoay người chạy đến bên chiếc gương treo trên tuờng. Mắt cô sáng lên.
Cho đến bây giờ, gia đình James Dillingham Young chỉ có hai vật quí giá nhất. Một thứ là chiếc đồng hồ vàng của Jim. Chiếc đồng hồ này trước đây thuộc sở hữu của cha anh ta và trước nữa là ông nội anh ta. Thứ còn lại là mái tóc của Della.
Della thả nhanh mái tóc dài óng mượt xuống lưng. Thật tuyệt đẹp, không khác nào như một chiếc áo khoác đang choàng qua người cô. Della cuộn tóc lên lại. Cô đứng lặng đi rồi thút thít một lát.
Della buớc chậm rãi qua các cửa hàng dọc hai bên đường rồi dừng lại trước bảng hiệu "Madame Eloise". Tiếp cô là một phụ nữ mập mạp, bà ta chẳng có một chút vẻ "Eloise" nào cả.
Della cất tiếng hỏi: "Bà mua tóc tôi không?"
"Tôi chuyên mua tóc mà", bà ta đáp và bảo: "hãy bỏ nón ra cho tôi xem tóc của cô đi"
Suối tóc nâu đẹp tuyệt vời buông xuống.
"Hai mươi đồng" bà ta định giá, bàn tay nâng niu mái tóc óng ả.
"Hãy cắt nhanh đi! Và đưa tiền cho tôi" Della nói.
Hai giờ tiếp theo trôi qua nhanh chóng. Cô tìm mua quà cho Jim trong các cửa hiệu trong niềm vui khôn tả. Cuối cùng cô cũng chọn được một thứ. Đó là môt sợi dây đồng hồ bằng vàng. Jim rất quí chiếc đồng hồ của mình nhưng rất tiếc là nó không có dây. Khi Della trông thấy sợi dây này cô biết rằng nó phải là của anh và cô phải mua nó.
Cô trả hai mươi mốt đồng để mua và vội vã trở về nhà với tám mươi bảy xu còn lại.
Đến nhà, Della ngắm mái tóc cực ngắn của mình trong gương và nghĩ thầm: "Mình có thể làm gì với nó đây?". Nửa giờ tiếp theo cô nhanh chóng chuẩn bị mọi thứ. Xong Della lại ngắm nghía mình trong gương lần nữa. Tóc của cô bây giờ toàn những sợi quăn quăn khắp đầu. "Chúa ơi, mình trông như một con bé nữ sinh ấy!" Cô tự nhủ "Jim sẽ nói gì khi thấy mình như thế này?"
Bảy giờ tối, bữa ăn đuợc chuẩn bị gần xong. Della hồi hộp chờ đợi, hy vọng rằng mình vẫn còn xinh đẹp trong mắt Jim.
Thế rồi cửa mở, Jim bước vào. Anh ấy trông rất gầy và cần có một cái áo khoác mới. Jim nhìn chằm chằm vào Della. Cô không thể hiểu được anh đang nghĩ gì, cô sợ. Anh ta không giận dữ, cũng chẳng ngạc nhiên. Anh đứng đó, nhìn cô với ánh mắt kỳ lạ. Della chạy đến bên Jim òa khóc: "Đừng nhìn em như thế, anh yêu. Em bán tóc chỉ để mua cho anh một món quà. Tóc sẽ dài ra mà. Em phải bán nó thôi, Jim à. Hãy nói "giáng sinh vui vẻ", em có một món quà rất hay cho anh này!"
"Em đã cắt mất tóc rồi à?" Jim hỏi
"Đúng thế, em đã cắt và bán rồi, vì vậy mà anh không còn yêu em nữa ư? Em vẫn là em mà!" Della nói.
Jim nhìn quanh rồi hỏi lại như một kẻ ngớ ngẩn: "Em nói là em đã bán tóc à?"
"Đúng, em đã nói vậy, vì em yêu anh! Chúng ta có thể ăn tối được chưa, Jim?"
Chợt Jim vòng tay ôm lấy Della và rút từ túi áo ra một vật gì đấy đặt lên bàn. Anh nói: "Anh yêu em, Della, dù cho tóc em ngắn hay dài. Hãy mở cái này ra em, sẽ hiểu tại sao khi nãy anh sững sờ đến vậy."
Della xé bỏ lớp giấy bọc ngoài và kêu lên sung suớng, liền sau đó những giọt nước mắt hạnh phúc rơi xuống. Trong đó là một bộ kẹp tóc,những chiếc kẹp dành cho mái tóc óng ả của Della. Cô đã mơ ước có đuợc nó khi trông thấy lần đầu tiên qua cửa kính một gian hàng. Những cái kẹp rất đẹp và rất đắt tiền. Bây giờ chúng đã thuộc về cô nhưng tóc cô thì không còn đủ dài để kẹp nữa!
Della nâng niu món quà, mắt tràn đầy hạnh phúc. "Tóc em sẽ chóng dài ra thôi, Jim", nói xong cô chợt nhớ đến dây đồng hồ vàng định tặng cho Jim và chạy đi lấy.
"Đẹp không anh? Em đã tìm kiếm khắp nơi đấy, giờ thì anh sẽ phải thích thú nhìn ngắm nó hàng trăm lần mỗi ngày thôi. Nhanh lên, đưa nó cho em, Jim, hãy nhìn nó với sợi dây mới này."
Nhưng Jim không làm theo lời Della. Anh ngồi xuống vòng tay ra sau đầu mỉm cuời nói: "Della, hãy cất những món quà này đi. Chúng thật đáng yêu. Em biết không, anh đã bán chiếc đồng hồ để mua kẹp cho em. Giờ thì chúng ta có thể bắt đầu bữa tối được rồi em yêu"
Đó là một câu chuyện cảm động về tình yêu của hai bạn trẻ đã hết lòng yêu nhau.




-----------------------------------------------------------------------------------
Like it best...



------------------------------
Ta sẽ nhắn ngàn lau phơ phất trắng
Khe khẽ giùm kẻo gió cuốn em đi
angry_bee is offline  

Old 01-03-2006, 18:08  

Manager
 
Join Date: 14-09-2005
Posts: 570
KL$ (TOP! 8): 8.632
Awarded 34 time(s)
Sent 54 thank(s)
Received 33 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A6 (2005-2008)
Location: My house

<div align=center>Quà tặng của những nhà thông thái</div>
<div align=right>Thanh Bình dịch</div>

Một đồng tám mươi bảy xu, đúng như vậy. Hàng ngày, cô cố gắng tiêu thật ít tiền khi đi chợ. Cô đi loanh quanh tìm mua thứ thịt và rau rẻ nhất cho bữa ăn hàng ngày, ngay cả lúc cảm thấy hết sức mệt mỏi cô vẫn cố tìm kiếm. Tiết kiệm được đồng nào hay đồng đó.

Della đếm lại số tiền ít ỏi một lần nữa. Không hề có sự nhằm lẫn, chỉ có một đồng tám mươi bảy xu, và ngày mai sẽ là lễ giáng sinh.

Cô sẽ không thể làm gì hơn, chỉ còn cách ngồi xuống và khóc mà thôi. ở đó, trong một căn phòng nhỏ, tồi tàn, cô đang nức nở.

Della sống trong căn phòng nhỏ nghèo nàn này với chồng của cô, James Dillingham Young, ở thành phố New York.

Họ có một phòng ngủ, một phòng tắm và một nhà bếp. James Dillingham Young may mắn hơn cô vì anh ấy có việc làm. Tuy vậy đó không phải là một công việc kiếm được nhiều tiền. Tiền thuê căn phòng này chiếm gần hết lương của anh ấy. Della đã cố gắng rất nhiều để tìm một công việc nhưng vận may đã không mỉm cười với cô. Tuy nhiên, cô rất hạnh phúc khi ôm 'Jim', James Dillingham Young, trong tay mỗi khi anh trở về. Della đã ngừng khóc. Cô lau khô mặt rồi đứng nhìn một chú mèo xám trên bức tường đồng màu với nó bên cạnh con đường tối ngoài cửa sổ.

Ngày mai là Noel và cô chỉ còn một đồng tám mươi bảy xu để mua cho Jim, Jim của cô, một món qùa. Cô muốn mua một món quà thật sự có ý nghĩa, một thứ có thể biểu hiện được tất cả tình yêu cô dành cho anh.

Della chợt xoay người chạy đến bên chiếc gương treo trên tuờng. Mắt cô sáng lên.

Cho đến bây giờ, gia đình James Dillingham Young chỉ có hai vật quí giá nhất. Một thứ là chiếc đồng hồ vàng của Jim. Chiếc đồng hồ này trước đây thuộc sở hữu của cha anh ta và trước nữa là ông nội anh ta. Thứ còn lại là mái tóc của Della.

Della thả nhanh mái tóc dài óng mượt xuống lưng. Thật tuyệt đẹp, không khác nào như một chiếc áo khoác đang choàng qua người cô. Della cuộn tóc lên lại. Cô đứng lặng đi rồi thút thít một lát.

Della bước chậm rãi qua các cửa hàng dọc hai bên đường rồi dừng lại trước bảng hiệu "Madame Eloise". Tiếp cô là một phụ nữ mập mạp, bà ta chẳng có một chút vẻ "Eloise" nào cả. Della cất tiếng hỏi: "Bà mua tóc tôi không?"

"Tôi chuyên mua tóc mà", bà ta đáp và bảo: "Hãy bỏ nón ra cho tôi xem tóc của cô đi".

Suối tóc nâu đẹp tuyệt vời buông xuống.

'Hai mươi đồng" bà ta định giá, bàn tay nâng niu mái tóc óng ả.

"Hãy cắt nhanh đi! và đưa tiền cho tôi" Della nói.

Hai giờ tiếp theo trôi qua nhanh chóng. Cô tìm mua quà cho Jim trong các cửa hiệu trong niềm vui khôn tả. Cuối cùng cô cũng chọn được một thứ. Đó là môt sợi dây đồng hồ bằng vàng. Jim rất quí chiếc đồng hồ của mình nhưng rất tiếc là nó không có dây. Khi Della trông thấy sợi dây này cô biết rằng nó phải là của anh và cô phải mua nó.

Cô trả hai mươi mốt đồng để mua và vội vã trở về nhà với tám mươi bảy xu còn lại.

Đến nhà, Della ngắm mái tóc cực ngắn của mình trong gương và nghĩ thầm: "Mình có thể làm gì với nó đây?". Nửa giờ tiếp theo cô nhanh chóng chuẩn bị mọi thứ. Xong Della lại ngắm nghía mình trong gương lần nữa. Tóc của cô bây giờ toàn những sợi quăn quăn khắp đầu. "Chúa ơi, mình trông như một con bé nữ sinh ấy!". Cô tự nhủ: "Jim sẽ nói gì khi thấy mình như thế này?".

Bảy giờ tối, bữa ăn được chuẩn bị gần xong. Della hồi hộp chờ đợi, hy vọng rằng mình vẫn còn xinh đẹp trong mắt Jim.

Thế rồi cửa mở, Jim bước vào. Anh ấy trông rất gầy và cần có một cát áo khoác mới. Jim nhìn chằm chằm vào Della. Cô không thể hiểu được anh đang nghĩ gì, cô sợ. Anh ta không giận dữ, cũng chẳng ngạc nhiên. Anh đứng đó, nhìn cô với ánh mắt kỳ lạ. Della chạy đến bên Jim òa khóc: Đừng nhìn em như thế, anh yêu. Em bán tóc chỉ để mua cho anh một món quà. Tóc sẽ dài ra mà. Em phải bán nó thôi, Jim à. Hãy nói "Giáng sinh vui vẻ", em có một món quà rất hay cho anh này!".

"Em đã cắt mất tóc rồi à?. Jim hỏi.

"Đúng thế, em đã cắt và bán rồi, vì vậy mà anh không còn yêu em nữaư? em vẫn là em mà!", Della nói.

Jim nhìn quanh rồi hỏi lại như một kẻ ngớ ngẩn: "Em nói là em đã bán tóc à?"

"Đúng, em đã nói vậy, vì em yêu anh! Chúng ta có thể ăn tối được chưa, Jim?"

Chợt Jim vòng tay ôm lấy Della và rút từ túi áo ra một vật gì đấy đặt lên bàn. Anh nói: "Anh yêu em, Della, dù cho tóc em ngắn hay dài. Hãy mở cái này ra em, sẽ hiểu tại sao khi nãy anh sững sờ đến vậy".

Della xé bỏ lớp giấy bọc ngoài và kêu lên sung suớng, liền sau đó những giọt nước mắt hạnh phúc rơi xuống. Trong đó là một bộ kẹp tóc, những chiếc kẹp dành cho mái tóc óng ả của Della. Cô đã mơ ước có đuợc nó khi trông thấy lần đầu tiên qua cửa kính một gian hàng. Những cái kẹp rất đẹp và rất đắt tiền. Bây giờ chúng đã thuộc về cô nhưng tóc cô thì không còn đủ dài để kẹp nữa!

Della nâng niu món quà, mắt tràn đầy hạnh phúc. "Tóc em sẽ chóng dài ra thôi Jim", nói xong cô chợt nhớ đến dây đồng hồ vàng định tặng cho Jim và chạy đi lấy.

Đẹp không anh? Em đã tìm kiếm khắp nơi đấy, giờ thì anh sẽ phải thích thú nhìn ngắm nó hàng trăm lần mỗi ngày thôi. Nhanh lên, đưa nó cho em, Jim, hãy nhìn nó với sợi dây mới này".

Nhưng Jim không làm theo lời Della. Anh ngồi xuống vòng tay ra sau đầu mỉm cười nói: "Della, hãy cất những món quà này đi. Chúng thật đáng yêu. Em biết không, anh đã bán chiếc đồng hồ để mua kẹp cho em. Giờ thì chúng ta có thể bắt đầu bữa tối được rồi em yêu".

************************************
GemLeaf is offline  

Old 01-03-2006, 18:11  

Manager
 
Join Date: 14-09-2005
Posts: 570
KL$ (TOP! 8): 8.632
Awarded 34 time(s)
Sent 54 thank(s)
Received 33 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A6 (2005-2008)
Location: My house

<div align=center>Hai mươi năm sau</div>



Viên cảnh sát đi tuần ngược lên đại lộ một cách oai phong. Vẻ oai phong cố hữu chớ không cố tình lấy le vì chẳng mấy ai chứng kiến. Lúc đó chỉ mới khoảng mười giờ đêm, nhưng từng đợt gió lạnh và trời muốn mưa làm đường sá vắng hẳn người.

Viên cảnh sát kiểm tra từng nhà, quay tròn cây ma trắc bằng động tác rắc rối ngoạn mục, thỉnh thoảng anh quay lại nhìn dọc đại lộ dài yên tĩnh với cái nhìn đầy cảnh giác. Thân hình vạm vỡ vẻ đàng hoàng tự tin, viên cảnh sát là hình ảnh đẹp đẽ của người giữ an bình xã hội. Ở khu này mọi sinh hoạt ngừng rất sớm. Thảng hoặc mới thấy ánh đèn tiệm thuốc lá hay một cái bar mở cửa suốt đêm, nhưng phần đông là tiệm tùng nên cửa đã đóng từ lâu rồi.

Khi đến giữa chừng một dãy nhà, viên cảnh sát bỗng dưng chậm bước. Ở lối vào tối thui tiệm bán đồ ngũ kim, một người đàn ông đang đứng tựa vào đấy, điếu xì gà chưa đốt trên môi. Khi viên cảnh sát đến bên cạnh, người đàn ông nói vội vàng giọng chắc nịch :

- Mọi việc đều ổn cả, ông cảnh sát ạ. Tôi chỉ chờ người bạn. Ðây là cái hẹn đã định trước từ hai mươi năm rồi. Ông thấy có vẻ lạ lùng phải không ? Vậy tôi giải thích cho ông nghe, nếu ông muốn chắc chắn là mọi việc đều bình thường, hợp pháp. Cũng gần khoảng hai mươi năm nay, trước kia có tiệm ăn tên « Big Joe Brady's » ngay chỗ tiệm đồ này đây.

- Tiệm ăn đó đã bị phá năm năm nay rồi. Viên cảnh sát xác nhận.

Người đàn ông đứng chỗ lối vào bật diêm châm thuốc. Ngọn lửa soi rõ khuôn mặt hơi xanh, quai hàm vuông, cặp mắt sắc bén với cái thẹo trắng nhỏ gần chân mày phải. Cái kẹp cà vạt nạm cục kim cương to tướng hơi kỳ. Anh ta nói :

- Tối nay là hai mươi năm rồi, tôi đã ăn tối tại « Big Joe Brady's » ở đây với Jimmy Wells, bạn thân nhất của tôi, người tuyệt vời nhất thế giới. Cậu ấy và tôi cùng lớn lên ở đất Nữu Ước này y như hai anh em. Lúc đó tôi mười tám và Jimmy hai mươi. Sáng hôm sau tôi phải đi miền Tây kiếm tiền. Ông không thể lôi Jimmy ra khỏi Nữu Ước được đâu. Cậu ta cho Nữu Ước là mảnh đất không đâu hơn trên đời. Rồi đêm đó chúng tôi giao ước là sẽ gặp lại hai mươi năm sau, đúng ngày giờ này, bất kể điều kiện sống như thế nào và bao nhiêu xa xôi cách trở phải vượt qua. Tin rằng trong hai mươi năm, số phận mỗi đứa đã được vạch rõ và của cải cũng đã có rồi, dù là gì chăng nữa.

Viên cảnh sát nói :

- Thú vị nhỉ. Nhưng tôi thấy giữa hai cuộc gặp gỡ có hơi lâu. Anh không bao giờ nhận được tin tức gì của bạn từ khi ra đi sao ?

- Có chớ. Chúng tôicó liên lạc một thời gian. Nhưng vài năm sau bặt tin nhau. Ông coi, miền Tây là một áp-phe khá lớn nên tôi xuôi ngược khắp nơi như thổ công. Tôi biết Jimmy sẽ gặp tôi ở đây nếu cậu ta còn sống, bởi vì cậu luôn luôn là người chân thật và trung thành nhất thế gian. Cậu không quên đâu. Tôi vượt cả ngàn cây số để tới đây tối nay, và sẽ được đền bù nếu bạn tôi cũng tới.

Người đứng chờ rút trong túi ra cái đồng hồ khá đẹp, nắp cẩn hột xoàn. Anh ta nói :

- Mười giờ kém ba phút. Chúng tôi đã chia tay ở đây, trước cửa tiệm ăn lúc đúng mười giờ.

Viên cảnh sát hỏi :

- Anh thành công ở miền Tây lắm phải không ?.

- Còn phải nói ! Giá Jimmy làm được một nửa như tôi ! Cậu ta hơi chậm chạp nhưng là người rất tốt. Tôi đã phải vật lộn với mấy tên cáo già thứ dữ để lập gia tài. Ở Nữu Ước con người đâm ra ù lì đi. Phải là miền Tây mới làm người ta sắc bén ra.

Viên cảnh sát quay tròn cây ma trắc bước đi vài bước :

- Tôi tiếp tục đi tuần nhé. Hy vọng là bạn anh sắp tới. Anh ta phải đến thật đúng giờ à ?

- Ô, không, tôi để dôi ra cho cậu ta ít nhất là nửa giờ chứ. Nếu Jimmy còn trên quả đất này thì cậu ta sẽ đến khoảng giờ đó. Xin chào ông cảnh sát.

- Chào anh.

Viên cảnh sát trả lời và tiếp tục cuộc tuần tiễu, kiểm tra từng cửa khi đi qua.

Trời đổ cơn mưa bụi thật lạnh và gió thổi từng cơn. Một ít người đi bộ còn trong khu này đang rảo bước, buồn rầu im lặng, cổ áo kéo cao, hai tay thọc sâu trong túi. Ở lối vào tiệm bán đồ ngũ kim, người đàn ông đã vượt cả ngàn cây số để giữ đúng một cái hẹn bấp bênh đến độ vô lý với người bạn thời niên thiếu, đang hút xì gà và chờ đợi.

Anh ta đợi khoảng hai mươi phút thì một người đàn ông cao lớn mặc áo khoác dài, cổ áo dựng đứng tận tai, từ đầu đường kia vội vã tiến tới. Anh ta đến thẳng chỗ người đứng chờ và hơi ngập ngừng hỏi :

- Cậu đấy hả, Bob ?

Người đàn ông đứng chờ ở lối vào la lên :

- Cậu đấy hả, Jimmy Wells ?

Người mới tới vừa reo vừa cầm hai tay bạn trong tay mình :

- Trời ơi ! Ðích thị là Bob, đúng như hai với hai là bốn. Tớ chắc chắn là sẽ gặp cậu ở đây nếu cậu còn sống trên đời. Hừm, ừ, hai mươi năm quả là dài. Cái quán ăn cũ đã biến mất rồi Bob à. Tớ muốn nó còn đó, như vậy tụi mình lại có thể ăn tối với nhau. Miền Tây đãi ngộ cậu ra sao, hở ông bạn già ?

- Tuyệt. Nó cho tớ tất cả những gì tớ muốn. Cậu thay đổi nhiều đấy, Jimmy. Tớ không bao giờ nghĩ là cậu cao như vậy, ít nhất cũng cao hơn cả ngón tay.

- Ờ, sau hai mươi tuổi tớ có cao thêm chút đỉnh.



- Ở Nữu Ước có thành công không, Jimmy ?

- Tàm tạm thôi. Tớ có việc làm ở một trong các bộ của thành phố. Ði, Bob, tụi mình tới một chỗ tớ biết để nói nhiều về thời gian qua cho yên tĩnh.

Tay trong tay, hai người đi ngược lên phố. Người tới từ miền Tây, mà tánh tự cao được phóng đại bằng thành công, bắt đầu kể những nét chính về lịch sử nghề nghiệp mình. Người kia thì chìm kín trong áo khoác, chăm chú lắng nghe.

Ở góc đường có tiệm thuốc tây sáng rực ánh đèn. Khi họ tới dưới ánh sáng chói chang ấy, hai người cùng lúc quay lại chăm chăm nhìn mặt nhau.

Người đến từ miền Tây bỗng dừng lại nới tay ra. Anh ta nói khô khan :

- Anh không phải là Jimmy Wells. Hai mươi năm quả thực là lâu, nhưng không đủ lâu để biến cái mũi khoặm thành mũi tẹt được.

Người cao lớn trả lời :

- Ðôi khi thời gian ấy đủ để thay đổi một người chân thực thành kẻ bất lương. Anh đang trong tình trạng bị bắt từ mười phút rồi, « công tử » Bob ạ. Chicago nghĩ là anh sẽ đi một vòng gần chỗ chúng tôi nên điện cho biết là họ muốn tán gẫu với anh một chút. Anh bình tĩnh nghe đấy chứ ? Như vậy là hợp lý. Giờ thì, trước khi đến bót, anh hãy đọc cái giấy người ta nhờ tôi trao tận tay anh cái đã. Anh có thể đọc trước cửa kiếng này. Của cảnh sát viên Wells gửi cho anh đấy.

Người đến từ miền Tây mở miếng giấy nhỏ người kia vừa đưa. Tay anh ta bất động khi bắt đầu đọc, nhưng khi đọc xong thì nó run lên. Mảnh giấy có vẻ ngắn gọn :

« Bob, tớ đã đến chỗ hẹn đúng giờ. Khi cậu bật diêm châm xì gà thì tớ thấy đó là khuôn mặt mà Chicago đang tìm. Không biết sao tớ không thể tự mình làm công việc ấy, nên đã tìm một cảnh sát viên mặc thường phục đến để thi hành. Jimmy ».

MIÊNG

Paris, Mars 1995
GemLeaf is offline  

Old 01-03-2006, 18:13  

Manager
 
Join Date: 14-09-2005
Posts: 570
KL$ (TOP! 8): 8.632
Awarded 34 time(s)
Sent 54 thank(s)
Received 33 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A6 (2005-2008)
Location: My house

<div align=center>Tay Súng Tay Đàn</div>



1.

Khi chán ngấy cuộc sống buồn tẻ đơn điệu ở nông trại, tôi liền nói với bố tôi:

- Con muốn đi xa bố ạ

- Mày muốn đi đâu? - Bố tôi gắt.

- Con tính về miền Tây. Hiện nay có nhiều dòng người đổ xô về đấy tìm vàng. Con hy vọng....

- Mày điên rồi à? - Bố tôi ngắt lời. - Sao mày không ở nhà mà kế nghiệp tao. Đó chỉ là một nơi hoang dã, vô luật pháp. Người ta chỉ có thể đào được mỏ vàng. Còn mày giỏi lắm chỉ được mấy hòn đá cuội.

Tôi chỉ có ý cho bố tôi biết thế thôi, chứ thực ra thì tôi đã quyết cả rồi. Tuổi trẻ là tuổi bay nhảy, quanh quẩn xó nhà hoài cũng chán. Mà tôi đã hơn 20 tuổi đầu rồi, có phải là con nít đâu (!). Tôi lẳng lặng bỏ vào nhà trong lấy ra hai chiếc túi hành lý trong đựng ít quần áo, vài quyển sách và số tiền tôi dành dụm bấy lâu:

- Mày đi thật à? - Bố tôi nghiến răng.

Rồi chẳng nói chẳng rằng, ông vùng vằng đứng dậy vớ ngay chiếc ghế đang ngồi ném mạnh vào tôi. Nhưng tôi kịp ù té chạy ra ngoài, đầu còn ngoái lại chào:

- Thưa bố, con đi!

2.

Tôi vừa ra được đường cái thì nghe vẳng lại tiếng vó ngựa lóc cóc lẫn tiếng đàn Banjo tình tang. Thong thả tiến lại phía tôi, một cỗ ngựa xe ngựa tàng, chẳng mui mái gì. Chú ngựa chẳng lấy gì làm mập mạp và có vẻ chẳng mấy sung sức. Ngồi bệch trên xe là một thanh niên dong dỏng, áo quần bẩn thỉu, râu tóc bờm xờm. Bộ mặt dàu dàu, gã như đang thất tình hay chán ngán điều gì. Gã vừa đàn vừa nghêu nghao hát:

Một mình từ nơi xa tít xa
Cây đàn xinh xắn vác trên bờ vai
Về nơi đây lang thang phất phơ
Đi tìm cô bé trót yêu lâu rồi....

- Này anh bạn, làm ơn cho tôi quá giang với. Tôi nói lớn.

Gã dừng hát, ngơ ngác nhìn tôi một hồi rồi ra dấu mời tôi. Tôi tức thì nhảy tót lên xe, ngồi đối diện với gã. Lúc này nhìn kỹ hơn tôi thấy bên hông gã còn lù lù một khẩu súng cũ mèm. Cái cổ đầy ghét bẩn đeo một trái tim xinh xắn bằng gỗ màu đen nhánh. Trên quả tim khắc khuôn mặt một thiếu nữ.

- Cậu về đâu thế? - Tôi hỏi

- Tôi về miền Tây - Gã lừ khừ đáp, miệng ngáp ngáp

- Vậy hai ta đồng chí hướng - Tôi hớn hở - Tên tôi là James, James Kelly. Cậu quê quán ở đâu.

- Tôi chỉ là một tên ma cà bông không cha không mẹ, không cửa không nhà - Gã nhún vai - Tôi sống nay đây mai đó với chú ngựa kia và chiếc giày làm bạn. Cứ gọi tôi là John.

Tôi để ý mỗi lần hắn nói, miệng gã lại tỏa ra một mùi hương không lấy gì làm dễ chịu. Có lẽ đã lâu gã chưa hề súc miệng. Thực ra, chỉ cái áo bẩn thỉu của gã cũng phát ra một mùi gần gần thế.

- John này, nếu muốn cậu có thể đọc mấy quấn truyện của tôi giải khuây.
Tôi mở túi hành lý, lấy ra quấn Don Quichotte của Cervantes thân mật đưa cho John

- Truyện này thế nào, cậu kể cho nghe được không. John cầm ngược cuốn sách, lật lật vài trang rồi ra vẻ ngượng nghịu. Thú thực tôi không biết đọc.

- Cậu mù chữ à? - Tôi trố mắt

- Vâng. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, tôi chưa bao giờ cắp sách đến trường. Có lần tôi ráng tự học nhưng đành chịu vì không sao nuốt nổi những nét chữ loằng ngoằng. Tôi thấy học bắn súng còn dễ hơn.

- Cậu bắn súng hẳn cừ lắm. Tôi đăm đăm nhìn khẩu súng của John.

- Tàm tạm - John cười cười.

- À nãy nghe cậu hát hay hết ý - Tôi vỗ vai John - Đề nghị cậu hát lại coi nào.

- Được thôi, John cầm chiếc đàn ôm vào lòng, gảy gảy mấy nốt nhạc êm tai rôi ngêu ngao cất tiếng:

Một mình từ nơi xa tít xa
Cây đàn xinh xắn vác trên bờ vai
Về nơi đây lang thang phất phơ
Đi tìm cô bé trót yêu lâu rồi.

Khi chẳng biết còn bao xa, tôi bùi ngùi vì sắp phải chia tay với người bạn mới quen song đáng mến.

- John này, chẳng mấy chốc anh em mình sẽ phải xa nhau. Tiếc là chú ngựa quèn của cậu không thể đưa chúng ta đi được mãi. Mong còn gặp lại cậu ở miền Tây hoang dã

- Đừng lo, John cười cười, cái cười tinh ma. Thực tình có được người bạn đường học thức như cậu tôi rất thích. Hai ta sẽ bên nhau suốt quãng đường thiên lý. Tôi đã có cách.

Cách gì thì tôi chưa biết. Xe chúng tôi lê thêm quãng nữa thì từ xa phóng đến một cỗ xe trông thật bảnh chọe hai ngựa kéo. Cỗ xe săp tới gần thì, trước sự ngạc nhiên của tôi, John bỗng nhảy xuống chặn đường, rút súng bắn chỉ thiên hai phát.

Đoành ...

Đoành ...

Mấy chú ngựa sợ hãy hí vang rồi đứng im.

- Tất cả xuống xe! - John gầm gừ.

Lời ra lệnh của John tức thì có hiệu nghiệm. Gã đánh xe mặt xám xanh, luống cuống nhảy tót xuống, hai tay giơ lên. Rồi liền đó, trong xe bước xuống một người đàn ông trạc tuổi ngũ tuần, tướng người bệ vệ cùng hai ả tiểu thư đỏnh đảnh trong những bồ xiêm y lộng lẫy. Tất cả đều có bộ mặt nơm nớp trước họng súng dữ dằn như bề ngoài du thủ du thực của John.

- Cảm phiền qúy ông qúy bà đổi hộ cho anh em chúng tôi chiếc xe. John dứ dứ súng vào đầu gã đàn ông bệ vệ. Đường còn xa mà cỗ xe của chúng tôi lại dở chứng.

- Lên xe ngay James - John quay sang tôi - Mang theo cả chiếc Banjo nữa đấy.

- Lẽ nào..... John - Tôi ngập ngừng.

- Chẳng sao đâu - John cười hì hì - Bọn nhà giàu mất cái này đã có khối tiền mua cái khác. Chỉ tội nghiệp cho bọn nghèo chúng mình.

Tôi không còn cách nào khác hơn là nghe theo lời John. Thực ra trong thâm tâm tôi luôn đồng ý những chuyện như thế này. Thế rồi, bỏ mặc chiếc xe cà rịch cà tàng và bọn người kia lại bên đường, chúng tôi phóng ngay lên cỗ xe ác chiến vừa '' sắm'' được dông tuốt. Trên cỗ xe mới còn có chiếc rương nhỏ trong đựng ít quần áo, một số nữ trang và vài ngàn đô la. Vì thế trên đường chúng tôi tha hồ ghé lại mua sắm những thứ cần thiết cho một chuyến đi xa. John còn mua thêm đạn dược và hai khẩu súng lục loại tốt nhất.

- Phải sẵn sàng vì có thể gặp những tên vô lại... - John chợt cười lên thoải mái - Cả bọn da đỏ nữa, vớ vẩn là chúng lột da đầu như chơi.

3.

Thay nhau điều khiển chiếc xe, tôi và John cùng nhau chia sẻ những vui buồn trên đường dài ngàn dặm. Với cái thằng tôi lúc ấy, đó là cả cuộc hành trình đầy gian truân mà trước đó tôi không hề lường trước được. Quên sao được những con đường gồ ghề đầy sỏi đá làm chiếc xe cứ xóc lên xóc xuống, khiến mình mẩy tôi muốn rã rời. Quên sao được cái lúc vượt qua sa mạc mênh mông nóng như thiêu đốt, bụi tung mù trời. Họng khô tới nỗi khó nuốt được nước bọt. Mà đâu chỉ một hai tiếng đồng hồ. Phải mất ngót nửa ngày trời dằng dặc mới thoát khỏi cái sa mạc quái qủy ấy. Và còn nhiều cái khổ khác nữa. Nhưng may thay, điều tôi lo lắng nhất đã không xảy ra, vì nếu xảy ra thì giờ này tôi chẳng còn ngồi đây để mà kể chuyện đời cho các bạn (!) Đó là lúc đi vào miền núi đồi, tiến vào đất nước thù nghịch của người da đỏ thích lột da đầu làm kỷ niệm. Suốt đêm tôi chỉ mơ thấy mình là cái xác ghê rợn với chiếc đầu đỏ hỏn đầy máu không một mảnh da. Chỉ John là bình chân như vại. Có lẽ anh đã quá quen thuộc với cảnh chết chóc cũng nên. Vâng, rất may chuyện đó đã không đến với chúng tôi. Phải chăng những truyền thuyết về tính man rợ của thổ dân da đỏ là thêu dệt quá đáng?

Nơi đâu tiên mà cỗ xe mệt mỏi của chúng tôi dừng bánh là thị trấn Bò Vàng. Đó là thị trấn tương đối sầm uất trên một vùng đất rộng lớn, bằng phẳng. Phía xa là con sông tươi mát uốn mình qua những ngọn núi cao hùng vĩ, tạo nên một cảnh thật tuyệt. Bản thân cái tên Bò Vàng cũng đã tạo cho khách xa một ấn tượng thật thoải mái. Hai bên đường chúng tôi đi qua những nhà thờ lớn nhỏ, hầu hết đều cất bằng ván. Quán xá khá nhiều. Phố phường đông kẻ qua lại trong những bộ ỵ phục nhiều màu sắc. Nhìn chung nơi đây cũng dễ chịu, trái với ý nghĩ ngô nghê của tôi trước kia rằng miền Viễn Tây chỉ gồm bọn giang hồ, dân anh chị tứ phương. Tuy nhiên tôi vẫn cảm thấy điều gì không ổn treo lơ lửng dưới bầu trời xanh biếc của thị trấn này.

- Thôi anh em chúng ta uống gì đỡ khát rồi tìm chỗ nghỉ ngơi đi.

John cho xe đỗ lại trước một quán rượu cũng có tên là Bò Vàng. Chắc xưa kia vùng này nhiều bò lắm - tôi nghĩ. Quán khá đông. Từ các bàn cho đến quầy hầu như kín chỗ, ồn ào lời ăn tiếng nói chen lẫn những tiếng cười ngặt nghẽo về đủ mọi chuyện trên đời kể cả chuyện tìm vàng, điều tôi đang theo đuổi.

- Bọn tôi từ phương xa mới đến, không rõ dân tình ở nơi đây thế nào?

Ơ quầy, nốc cạn một hơi mấy cốc bia thật tuyệt, chúng tôi vui vẻ bắt chuyện cùng ông chủ quán, một người có thân hình béo phị nặng nề.

- Thị trấn này có vẻ tươi vui đấy ông nhỉ?

- Ô` vâng, có lẽ thế - Ông ta nhún vai cười đáp - Thực ra thì nơi đâu cũng có những vui buồn của nó.

- Nghĩa là sao ông chủ? - John lại hỏi.

Anh vừa dứt lời thì ông chủ quán chợt sa sầm lại. Vẻ khiếp sợ hiện rõ trên gương mặt của ông.

Tất cả mọi thực khách trong quán cũng thế. Im bặt. Sững sờ. Khiếp sợ ...

John nhìn ra bên ngòai cửa. Có chuyện gì xảy ra vậy???

4.

Anh vừa dứt lời thì ông chủ quán chợt sa sầm lại. Vẻ khiếp sợ hiện rõ trên gương mặt của ông. Tất cả mọi thực khách trong quán cũng thế. Im bặt. Sững sờ. Khiếp sợ ...

John nhìn ra bên ngòai cửa. Chúng tôi cũng quay nhìn ra. Có chuyện gì xảy ra vậy???

Lù lù bước vào một gã đàn ông cao lớn, tướng mạo dữ dằn với đôi mắt cú vọ lạnh như băng, bộ râu hàm lởm chởm, áo quần bạc phếch đầy cát bụi. Vết thẹo dài trên trán và hai khẩu súng đeo hai bên hông càng làm tăng thêm sự dữ dằn của hắn. Hắn xăm xăm bước thẳng đến quầy. Lúc này, tất cả khách khứa, trừ chúng tôi, thảy đều tự động bỏ ra ngoài, vẻ sợ hãi ra mặt.

- Dạ thưa ngài dùng chi? - Ông chủ quán khúm núm thưa với người khách mới.

- À hai thằng ranh kia, sao còn dám đứng đây - Hắn chỉa đôi mắt cú vọ vào chúng tôi - Muốn trêu gan tao hả?

Nói chưa dứt câu, hắn lấy cánh tay vạm vỡ phang mạnh vào người khiến tôi té nhào ra sau, đầu va mạnh vào thành bàn đau tê tái.

- Quân khốn kia, sao mày dám dở trò ngang ngược - John bất bình, mặt anh đỏ gay.

- Cả mày nữa - Hắn cười gằn với John - Mày cũng lo cút khỏi nơi đây ngay. Tao đến đâu thì tất cả ở đó phải cút hết.

- Chính mày mới phải cút khỏi đây - John nhổ toẹt nước bọt vào mặt hắn.

- Ái chà thằng khốn nạn, mày dám hả? - Lấy vai áo chùi chùi mặt, hắn gầm gừ - Tao truyền cho mày phải luồn dưới háng tao ngay, bằng không thì mày sẽ phải đấu súng với tao.

- Đấu thì đấu, ta sợ gì - John vỗ mạnh vào khẩu súng bên hông anh, vẻ đầy tự tin.

- Thôi đừng, John ơi - Tôi vội vàng kéo vai John - Can cậu. Cậu nên nghĩ lại thì hơn. Cậu có mệnh hệ gì thì...

- Mặc tôi James - John vẫn tỉnh bơ - Tôi chơi súng không tồi đâu.

- Cậu cho tôi xin - Cả ông chủ quán cũng chen vào - Cậu còn trẻ người non dạ, lại từ xa mới đến nên chưa biết uy danh ngài Ben đây.

Nhưng mặc ai can ngăn, John vẫn bước theo tên Ben ra ngoài. Tôi có cảm giác đau khổ là trong chốc lát nữa thôi mình sẽ mất đi vĩnh viễn người bạn qúy đã chia sẻ cùng tôi trên bao dặm trường.

- Tao sẽ quăng đồng xu lên - Tên Ben khinh khỉnh bảo John - Đồng xu vừa chạm đất thì rút súng.

- Thằng nhãi này điên rồi - Mọi người tụ tập bên ngoài nhìn John xì xầm - Đấu súng với Ben Thẹo là rước lấy cái chết. Chắc nó mới từ trên trời rơi xuống nên không biết tài bắn nhanh như chớp của Ben Thẹo.

Trước sự lo lắng tột cùng của tôi, John quả quyết bước ra đường, đối mặt cách Ben Thẹo chừng chục bước. Hắn ta lạnh lùng cho tay vào túi áo móc ra một đồng xu. Giây phút này người tôi ướt đẫm mồ hôi, tim tôi cơ hồ muỗn vỡ tung. Một màu không khí bao trùm lên mọi vật. Nhếch mép cười, Ben Thẹo quăng đồng xu lên. Đồng xu vừa rơi xuống chạm đất thì hầu như cùng lúc ấy một tiếng súng chát chúa vang lên.

Đoàng.....

Cả không gian im lặng. Tim tôi tưởng đã vỡ trăm ngàn mảnh. Cả John và Ben Thẹo đều ở trong tư thế chĩa súng vào nhau.

Từ họng súng của John bay ra một làn khói, nhưng súng của đối thủ thì không ...

Thế rồi một tích tắc sau, thân hình to lớn của Ben Thẹo đổ vật xuống. Chuyện ai không ngờ. Từ giữa ngực tên hung bạo, máu phun ra có vòi. Hắn giãy giãy vài cái rồi im hẳn, đầu nghẹo sang một bên. Mắt hắn còn mở trừng trừng như kinh ngạc về điều vừa xảy đến.

Hắn đã chết !

- Trời John ... - Tôi xúc động chạy tới ôm chầm lấy John - Tôi không ngờ ...

- Thì tôi đã bảo cậu là tôi chơi súng không tồi đâu mà - John cười, hồn nhiên như chưa có chuyện gì xảy ra.

- Tôi cứ tưởng cậu sẽ mất mãi mãi. Theo cậu gần tháng nay vậy mà giờ tôi mới biết tài năng trác tuyệt của cậu.

- Tài như cậu ít ai bì kịp - Mọi người cũng hồ hởi xúm quanh John.

- Cậu có biết là cậu vừa hạ được Ben Thẹo, tay súng cự phách của miền Tây không? Hắn đã cướp đi mạng sống bao người. Tài hắn chỉ kém Bill Scott. Tên này và đồng bọn vẫn là mối đe dọa của chúng tôi.

- Thế không có ai coi việc an ninh ở đây sao? - John hỏi

- Có, có chứ - Một người trông có vẻ vai vế vùng này đáp - Nhưng có cũng như không vì ai cũng khiếp sợ chúng. Chính người cầm đầu an ninh trước đây đã bị Ben Thẹo cho sang thế giới bên kia với hàng chục phát đạn vào người.

- Đề nghị cậu giúp chúng tôi thành lập một nhóm dân quân biết sử dụng súng thành thạo - Ông ta khẩn khoản - Chúng tôi xin hứa sẽ chịu mọi phí tổn và tiếp đãi cậu như thượng khách.

Thực ra tôi và John chỉ muốn nghỉ ở đây rồi sau sẽ đi xa hơn để tìm vàng. Song, trước tình cảnh của thị trấn này cùng sự khẩn nài hết lời của dân chúng, John đã không thể từ chối.

Thế là từ đấy chúng tôi trở thành công dân của thị trấn Bò Vàng, nơi con người lãng tử của John sẽ gắn bó suốt quãng đời còn lại của anh.

5.

Việc hạ được Ben Thẹo khiến John từ một người khách vô danh trở nên tiếng tăm khắp vùng. Mọi người khâm phục nhắc đến tên anh. Đến đâu anh cũng được chào đón nồng hậu. Phải nhận rằng nếu John cứ để đầu tóc bờm xờm, mình mẩy hôi hám thì khó mà hấp dẫn được ai. Song từ khi về đây, cách sống của anh đã thay đổi nhiều. Nhờ siêng năng tắm rửa luôn, tóc tai chải chuốt, ăn vận đàng hoàng, trông anh bảnh trai ra phết. Thành thử chẳng bao lâu, thêm với tài đàn hay bắn giỏi đã khiến cho cõi lòng của lắm tiểu thư phải rung động. Nhiều cô tới thăm hỏi anh luôn.

Vậy mà lạ chưa, trước ánh mắt mời mọc đầy tình tứ của các kiều nữ, John vẫn hoàn toàn dửng dưng. Chẳng lẽ anh chàng này lại kén cọ đến thế ư? Song là bạn thân, được ở bên John luôn nên tôi cũng hiểu ra. Nhiều lần tôi thấy anh ngồi một mình, tay nâng niu quả tim gỗ luôn đeo ở ngực không bao giờ rời, mắt đăm đăm nhìn người thiếu nữ khắc trên đó, vẻ mặt u buồn, đôi khi khéo mắt rưng rưng. Thì ra trong anh có một tâm sự buồn.

" Ngày trước tôi có yêu Susan, một thiếu nữ xinh đẹp thùy mị - một ngày kia John thổ lộ với tôi - nhiều chàng trai sang trọng ngỏ lời muốn lấy nàng làm vợ nhưng Susan vẫn một lòng tha thiết yêu tôi, một tên đói rách không cha không mẹ, một chữ bẻ làm đôi không biết. Mối tình chúng tôi đang say đắm thì Susan đột ngột qua đời ...

Nàng yên nghỉ trong một nghĩa trang nhỏ gần dòng sông Missouri êm ả. Từ đó trở đi tôi sống một cuộc đời lang thang và thề không bao giờ còn yêu ai nữa ..."

Sau nhiều tháng trời được sự huấn luyện tận tình của John, thị trấn Bò Vàng có được một đội dân quân khá tinh nhuệ gần ba mươi người. Thảy đều là những thanh niên tình nguyện, trong đó có tôi. Sự có mặt của dân quân làm cướp cạn vùng này giảm đi rõ rệt.

Riêng với John, thấy bóng anh là tên vô lại nào sắp giở trò cũng phải nhanh chân chuồn mất. Cái chết của Ben Thẹo ngày nào vẫn còn là nỗi ám ảnh của bọn chúng. Nhưng có điều John chưa hài lòng là vẫn chạm trán với Bill Scott.

Qua lời kể, được biết băng đảng của chúng gồm sáu tên, đặc điểm: một tên chột mắt, một tên da đỏ, một tên cao lêu nghêu gần hai thước. Mấy tên kia không có gì lạ. Đặc biệt Bill Scott có gương mặt thật đẹp trai, trí thức đến nỗi không ai biết trước không thể ngờ đấy là một tên cướp giết người không gớm tay. Bọn chúng đều là những tay súng thiện nghệ mà trội hơn cả chính là Bill Scott. Có người bảo hắn thừa sức bắn trúng con ruồi bay cách xa trăm thước. Hẳn về khiếp sợ hắn nên thêu dệt thế thôi, nhưng có thể ghi nhận tài cầm súng của Bill Scott chắc phải ngang ngửa với John chứ chẳng chơi (!).

Chúng cướp bóc hết vùng này sang vùng khác, mỗi nơi lâu lâu ghé một lần. Bọn chúng đã thăm viếng nhà nào thì nhà nấy phải mau mau lo nộp đủ yêu cầu của chúng, trái lời thì chỉ có nước hồn lìa khỏi xác. Nói chung, đây là một băng cướp lợi hại, không phải loạt cướp vặt tầm thường.

Cuối cùng John cũng được toại nguyện. Một sáng kia, đúng một năm sau cái chết của Ben Thẹo, có mấy người dân quân và cả ông chủ quán Bò Vàng hối hả chạy đến tìm John hiện băng cướp của Bill Scott đang hiện diện đầy đủ tại quán này và đang cưỡng hiếp Nancy, con gái ông. Oái ăm thay, chính lúc ấy John vừa lên cơn sốt xong. Nước da xanh xao, trông anh sút đi thấy rõ. Vậy mà John vẫn tỏ ra vô cùng hăm hở khi nghe tin ấy. Đang trên giường bệnh, anh ngồi bật dậy ngay. Dù số quân đông hơn hẳn song chúng tôi không dám khinh địch vì đối phương nổi tiếng là những tay súng có hạng. Bởi thế, để tránh thiệt mạng tối đa cho anh em, kế hoạch John đề ra là phải đánh bất ngờ, đánh úp chúng.

Cái khó cho chúng tôi là trong tay bọn cướp còn có Nancy. Chúng có thể dùng nàng làm vật chắn khiến chúng tôi không dám bắn. Tóm lại, một trận đánh ác liệt sắp diễn ra. Trong trận đánh này nhiều người trong chúng tôi phải hy sinh. Đối với nhân dân thị trấn Bò Vàng này, ngày đó đã đi vào lịch sử và sống mãi trong ký ức. Tôi xin kể lại toàn bộ diễn biến trận đánh ấy ...

" Sau khi nhanh chóng bố trí nhiều tay súng mai phục trên các ngả đường, quyết không cho tên cướp nào chạy thoát, John cùng tôi và tám người khác kéo ngay đến ngôi nhà lớn bên kia đường đối diện với quán Bò Vàng, chờ bọn cướp ló ra là giáng đòn phủ đầu. Chúng tôi chưa kịp ổn định vị trí thì từ trong quán, cả sáu tên của băng cướp lục đục kéo ra. Đấy là lần đầu tiên tôi và John thấy tận mắt những tên cướp khét tiếng kia. Thành phần của chúng đúng như lời kể. Tên da đỏ có bộ mặt thật đáng sợ. Chiếc mũi khoằm to xù của hắn dễ làm liên tưởng đến những con kên kên chuyên rỉa xác chết. Bản thân hắn cũng lột da đầu nhiều người cũng nên. Tên chột lại càng chẳng đẹp đẽ gì. Chiếc băng đen bịt kín chiếc mắt hư cùng chiếc môi sứt và những vết thẹo chằng chịt trên mặt hắn làm hắn thật ghê tởm. Kẻ nào yếu bóng vía chẳng tài nào dám nhìn, sợ đêm về mơ. Đó là hai tên có bề ngoài thật khó ưa nhất. Những tên kia tương đối đỡ hơn. Song nói chung đều giống nhau ở điểm là toát ra vẻ sát khí lạnh lùng, ngoại trừ Bill Scott. Trời, người như thế lại là tướng cướp ư? Với vóc người đầy đặn, cân đối mà lại thêm gương mặt vô cùng trí thức, đẹp trai, phải nói hắn thừa sức chinh phục trái tim nhiều phụ nữ. Hắn lại xuất thân từ gia đình danh giá hẳn hoi. Vậy mà.....

Chúng tôi ai nấy đều chuẩn bị vào trận. Nhưng quái ác thay, điều chúng tôi lo ngại đã đến. Kề cạnh Bill Scott chính là cô Nancy xinh đẹp trong bộ quần áo rách tả tơi. Bị tên cướp ôm chặt, nàng khóc sướt mướt. Thì ra cưỡng hiếp nàng xong, chúng vẫn chưa muốn buông tha. Ôi giá không vướng Nancy thì chúng tôi đã khạc vào bọn côn đồ những loạt đạn căm thù ngay tức khắc. Tình thế thật khó xử ...

- Các bạn cứ để tôi. Nhìn bọn cướp chuẩn bị lên ngựa đi - John ra hiệu cho chúng tôi đừng bắn gì.

Thế rồi chĩa ngay súng về phía quân thổ phỉ, John lấy cò.

Đoàng...

Đoàng ...

Hai tiếng súng vang lên ...

Vừa đặt lên mình ngựa, tên cao kều và gã độc nhãn rơi ngay xuống ngựa. Hai phát đạn cực kỳ chính xác của John đã loại khỏi vòng chiến đấu hai tên vô lại. Riêng tên chột bị đạn xuyên qua con mắt lành thành thử hắn phải về chầu trời với đôi mắt mù hoàn toàn!

Bị bắn bất ngờ, mấy tên kia lập tức rút súng bắn xối xả về hướng xuất phát những viên đạn sát hại đồng bọn chúng, khiến chúng tôi vội vàng náu mình. Người qua đường nhốn nháo. Một cụ già bị đạn lạc chết ngay. Thừa lúc ấy, bọn cướp phóng ngựa bỏ chạy. Hai tên chạy một đầu, tên da đỏ chạy đầu khác. Riêng Bill scott siết chặt Nancy lôi vào quán.

Phải công nhận bọn cướp chiến đấu rất ngoan cường. Trên đường đào tẩu chúng đã bị anh em dân quân phục sẵn hai bên đường truy kích liên tiếp. Với hai tên chạy một hướng, những phát đạn đầu của anh em đều trật trong khi đó chúng vẫn bình tĩnh bắn trả, giết chết bốn dân quân. Song ngày tàn của chúng cũng đã đến. Khi chúng cố gắng chạy thoát ra vùng đồi núi thì bắt đầu xơi đạn. Một tên bị lủng sọ bởi viên đạn của Mark Doighs, tay súng khá nhất trong đám dân quân. Tên kia dù không xơi đạn vào đầu nhưng cũng lãnh gần chục phát vào mình. Hắn lì lợm ôm ngựa chạy miết rồi mới chịu gục chết bên bờ sông.

Tên da đỏ thì sao ?

Thực tôi chưa thấy ai ghê ghớm như hắn. Thân hình đẫm máu vì hàng loạt đạn hắn vẫn cố bắn trả, hạ sát ba dân quân. Sau đó hắn còn nhận thêm nhiều phát đạn nữa, đưa tổng số đạn đi vào người hắn hơn hai mươi viên!

Thân thể tên da đỏ chỉ còn là một đống thịt rách nát. Thế mà hắn còn gắng chạy thêm quãng nữa rồi mới chịu buông mình xuống ngựa. Các dân quân tưởng hắn đã chết, tiến lại gần thì hắn dốc hết tàn lực bóp cò, giết thêm một mạng người nữa xong mới chịu chết hẳn. Như vậy, để hạ được ba tên bỏ chạy, chúng tôi đã thiệt hại mất tám người. Nhưng đó chưa phải là tất cả. Để tiêu diệt trọn ổ bọn chúng, chúng tôi đã phải trả một giá đắt hơn nhiều ..."

Tôi xin quay sang Bill Scott.

" Sau khi kéo Nancy vào lại trong quán, hắn, một mặt lấy nàng làm vật che chắn, mặt khác xả đạn như mưa về phía chúng tôi. Còn chúng tôi lại không làm gì khác hơn là ngồi im chịu trận. Cựa cựa một chút là nát sọ như chơi. Rất may là những viên đạn của tên cướp không chạm vào ai.

- Sớm muộn Bill Scott cũng phải thua - John nói, song có thể kết cục không đơn giản.

Theo tôi, có khả năng xảy ra một trong hai điều: hoặc là Bill Scott buông súng quy hàng, hoặc là hắn sẽ buộc đối phương để hắn cùng Nancy ra đi mà không ai dám bắn theo. Điều thứ nhất khó xảy ra đối với một tên cướp sừng sỏ như hắn. Nhưng đúng như John dự tính, sự việc lại diễn ra theo hướng khác.

- Tao không ngờ vùng này dám trở mặt phản tao - Bill Scott nói lớn, giọng đầy căm giận - Tao sẵn sàng thả con bé ra với điều kiện đứa nào đã xách động bọn bay phải đấu súng với tao. Dưới vòm trời này chỉ nên có một con đại bàng.

- Được rồi - John lẩm bẩm - Năm ngoái cũng ngày này, cũng tại chốn này, Ben Thẹo đã bỏ mạng thì nay đến lượt mày.

- Đừng John! - Sợ John nhận lời đấu súng, tôi vội vàng can ngăn - Đừng quên cậu vừa sốt xong. Bình thường cậu có thể chọi với hắn, song lần này chỉ cần tay cậu kém nhạy đi một chút thôi.

- Đừng lo, James - John vẫn bình tĩnh như ngày nào - Đây cũng là điều hay vì nếu thoát được, hắn sẽ gây lại băng đảng khác và chúng ta chỉ thêm mệt.

- Hay là ... - Biết không thể nào ngăn được John, tôi đề nghị - Hay là khi hai người sắp vào cuộc, chúng tôi sẽ đồng loạt xả đạn vào người hắn.

- Không được đâu - John lắc đầu - Rõ ràng Nancy trong tay hắn, hắn có thể thoát đi dễ dàng. Nhưng hắn không làm thế, nên ta cũng phải tỏ ra là kẻ biết chơi.

Và anh lên tiếng nhận lời đấu súng với Bill Scott. Như lần trước với Ben Thẹo, một lần nữa cả không gian lại đắm chìm trong im lặng. Có thể nghe thấy tiếng ruồi bay. Tất cả nín thở nhìn John và Bill Scott rời vị trí lừng lững bước ra đường. Cả hai đều mang vẻ nghiêm trọng, mắt ghờm ghờm nhau. Dù hoàn toàn tin tưởng vào John tôi vẫn thấy lo. Song như bao người khác, tôi chỉ biết bất lực câm lặng, chờ đợi.

Hai tay súng từ từ bước vào vị trí đối mặt, cách nhau hai mươi bước. Sự căng thẳng đã lên đến tột độ. Trống ngực tôi đập thình thịch.

Thời gian như dừng lại ...

Đất trời như muốn vỡ tung ...

Và rồi nhanh như chớp, hai đối thủ cùng rút súng ra. Đoàng ... Một âm thanh xé tai vang lên, tưởng chừng như tiếng nổ của đất trời.

- Bill Scott đã chết! - Mọi người hét to.

Thực vậy, một giây sau vang lên cái âm thanh xé tai ấy, thân hình Bill Scott đổ nhào xuống. Mặt hắn đầy máu. Hắn đã trúng đạn vào đầu. Còn John vẫn đứng nguyên, tay buông thõng khẩu súng đang nhả khói. Đối thủ của anh hoàn toàn nằm bất động. Thế là tàn đời một kẻ tàn bạo. Thế là xóa sổ một băng cướp sừng sỏ. Mối đe dọa lớn nhất của thị trấn Bò Vàng từ nay không còn nữa. Nụ cười rạng rỡ sung sướng nở rộ trên mặt bao người.

Nhưng niềm vui ấy không trọn vẹn, không bao giờ trọn vẹn. Phải, mọi người vừa đổ bu quanh xác Bill Scott thì John ôm ngực lảo đảo ngã gục.

Trời ơi, anh cũng trúng thương. Thì ra một viên đạn của Bill Scott cũng bay ra cùng lúc với John và trúng đích. Tôi bàng hoàng chạy đến bên John. Từ ngực anh máu tuôn ra như suối. Quả tim John luôn đeo nơi ngực bị thủng một lỗ tròn, viên đạn ác nghiệt của tên cướp đã đi xuyên qua nó và đi vào ngực John. Qua gương mặt nhợt nhạt và hơi thở yếu át của John, tôi biết anh chẳng sống bao lâu nữa.

- Ôi John của tôi - Tôi nức nở.

- Bạn James yêu qúy ... - John thều thào trăn trối - Tôi sắp ra đi... từ lâu tôi muốn gặp lại Susan. Sau khi tôi chết, bạn hãy đem trái tim tôi luôn đeo bên ngực đến đặt lên mộ nàng..., có lẽ tôi đã sống không tồi..., thuở còn sống, Susan luôn mong tôi được rạng rỡ với đời.

6.

Đến nay, John đã an nghỉ ở vùng đất này được 10 năm. Gót chân phiêu lãng của anh mãi mãi đứng lại nơi đây. Những vòng hoa tưởng nhớ thường xuyên được mọi người đặt lên mộ anh.

Mười năm rồi ... Vậy mà tôi cứ ngỡ như ngày hôm qua ...

Trên quãng đời còn lại của tôi có thể sẽ thêm nhiều bạn nữa, có thể sẽ thêm nhiều kỷ niệm. Nhưng tôi tin chắc rằng người bạn tuyệt vời nhất đời tôi là John, những kỷ niệm tuyệt vời nhất đời tôi mãi mãi vẫn là những ngày tháng ngắn ngủi được sống bên cạnh chiếc xe ọp ẹp năm xưa, áo quần bẩn thỉu, tóc tai bù xù, anh cầm ngược cuốn Don Quichotte mà lật lật ...

Giờ đây, khi John đã vĩnh viễn sang thế giới bên kia gặp lại người con gái của lòng mình, tôi tưởng chừng vẫn còn nghe đâu đây giọng ấm áp của anh ngày nào cùng tiếng đàn Banjo réo rắt:

Một mình nơi xa tít xa
Cây đàn xinh xắn vác trên bờ vai
Về nơi đây lang thang phất phơ
Đi tìm cô bé trót yêu lâu rồi....
GemLeaf is offline  

Old 01-03-2006, 20:26  

Phá sản!
 
Join Date: 31-12-2005
Posts: 5
KL$: 0

Tên cảnh sát và bản thánh ca




Xôpi trăn trở trên chiếc ghế trong quảng trường Mađixơn. Khi ban đêm ngỗng trời kêu to, khi những người phụ nữ không có áo da hải cẩu trở nên dịu dàng với chồng, và khi Xôpi trăn trở trên chiếc ghế của y trong quảng trường, thì ta có thể tin rằng mùa đông đang tới.
Một chiếc lá vàng rơi vào lòng Xôpi. Đó là tấm danh thiếp của nàng Sương muối. Nàng Sương muối rất tử tế với những kiều dân trú ngụ thường xuyên trong quảng trường Mađixơn và dịu dàng báo cho họ biết cuộc viếng thăm hàng năm của mình. Tại các ngã tư đường phố, nàng trao tấm thiếp của nàng cho chàng Gió Bấc, người hầu ở toà lâu đài Ngoài Trời, để báo cho những cư dân sống trong toà lâu đài đó chuẩn bị sẵn sàng.
Xôpi nhận thức được rằng đã đến lúc tự mình phải tham gia vào một uỷ ban kì quặc, uỷ ban Kế hoạch và Ngân sách, để chống lại những điều khắc nghiệt sắp xảy ra. Vì thế, y trăn trở trên chiếc ghế của y.
Tham vọng nghỉ ngơi mùa đông của Xôpi không lớn lắm. Y không tính đi du lịch ở Địa Trung Hải và cũng chẳng hề mơ tới những bầu trời miền Nam êm ái ru ta ngủ hoặc dược rập rình trôi trên vịnh Vêduyvian (1). Ba tháng ở đảo Bléc-oen là niềm mơ ước khát khao trong lòng y. Ba tháng ở đảo Bléc-oen sẽ được đảm bảo chắc chắn về nơi ăn, chốn ở, có bạn bè dễ chịu, được yên ổn thoát khỏi chàng Gió Bấc, thoát khỏi những gã áo xanh (2). Ba tháng đó tựa như đối với Xôpi là niềm mong ước tha thiết nhất.
Đã bao năm nay, cái nhà tù trên đảo hiếu khách đó là nơi cư trú mùa đông của y. Mỗi mùa đông, cũng như những đồng bào Niu Yoóc may mắn hơn của Xôpi đi mua vé đến bãi biển Pam hoặc Riviera (3), thì y lại có những xếp đặt; tính toán giản đơn cho cuộc nghỉ ngơi mùa đông hàng năm của y ở đảo Bléc-oen. Và bây giờ, thời gian đó đã lại đến. Đêm trước, lúc nằm ngủ trên chiếc ghế cạnh vòi phun nước trong quảng trường cổ kính, với ba tờ báo chủ nhật chia ra lót dưới người, cuốn quanh mắt cá chân và phủ ngang bụng, y vẫn không chống nổi với khí trời lạnh lẽo. Cho nên, trong óc Xôpi, hòn đảo Bléc-oen hiện lên sừng sững và đúng lúc. Y rất khinh bỉ sự cứu tế được mệnh danh là lòng từ thiện đối với những kẻ được cấp đỡ ở trong thành phố này. Theo Xôpi, ngay Luật pháp cũng còn êm ái hơn Lòng từ thiện. Có vô số hội, ban, viện từ thiện mà y có thể đến xin được một chốn ở xuềnh xoàng, một miếng ăn đạm bạc. Nhưng đối với lòng kiêu hãnh của Xôpi, những của bố thí để lại một dư vị đắng cay. Mỗi ân huệ nhận được ở bàn tay từ thiện, nếu ta không trả được bằng tiền thì phải trả bằng lòng tự trọng. Như Xêda có Brutút, mỗi chiếc giường bố thí, mỗi miếng bánh mì đều phải trả bằng sự xoi mói cá nhân, riêng tư. Vì vậy, tốt hơn hết hãy là người khách của Luật pháp. Dù nằm dưới bàn tay luật lệ, người ta cũng chẳng bậy bạ xen vào việc riêng của một người có tư cách.
Đã quyết định phải tới đảo Bléc-oen, Xôpi tức khắc bắt tay thực hiện niềm khao khát. Có nhiều cách dễ dàng để làm việc này. Cách thú vị nhất là ăn một bữa thịnh soạn tại một khách sạn sang trọng nào đó, và sau khi tỏ rõ là không có tiền trả, tất sẽ được dẫn tới cảnh sát một cách êm ả, không ồn ào. Một viên quan toà thạo việc sẽ nhất định giải quyết nốt phần còn lại.
Xôpi rời chiếc ghế, ra khỏi quảng trường, đi lang thang, vượt qua ngã tư rải nhựa rộng mênh mông nằm giữa đại lộ Brốt-uê và đại lộ Năm (4). Y đi ngược lại đại lộ Brốt-uê, rồi dừng lại trước cửa một hiệu ăn rực rỡ ánh đèn, đó là nơi ban đêm tụ họp những của ngon vật lạ được chọn lọc kĩ càng nhất.
Trên con người Xôpi, y tự tin từ chiếc khuy áo thấp nhất trở lên. Y đã cạo râu, chiếc áo lịch sự, chiếc nơ đen kiểu thắt sẵn gọn gàng là của một bà truyền giáo cho y vào ngày lễ Tạ ơn (5). Nếu Xôpi tới được một cái bàn trong hiệu ăn, thoát khỏi những con mắt quan sát chặt chẽ, thì y chắc chắn sé thành công. Cái phần y phô bày ở phía trên mặt bàn sẽ không làm người hầu bàn nghi ngờ chút nào cả. Một con vịt trời quay, Xôpi nghĩ thầm, đúng là món thích hợp, một chai rượu Cheblít, rồi đến pho-mát Kerenbớt, một tách con cà phê và một điếu xì-gà. Một đôla xì-gà là đủ. Tổng số tiền sẽ không quá cao khiến nhà hàng phải có những biện pháp cực đoan, tuy thế bữa ăn phải làm sao cho no nê và thoải mái để bước vào cuộc hành trình tới chỗ ẩn náu mùa đông.
Nhưng khi Xôpi vừa bước qua cửa, cặp mắt của người đứng đầu nhóm hầu bàn chú ý ngay đến chiếc quần đã sờn và đôi giày cũ kĩ, mòn vẹt của y. Những bàn tay mạnh mẽ và sẵn sàng đã xoay người y lại, đẩy y, lặng lẽ và mau lẹ trở lại vỉa hè; như vậy, đã cứu dược con vịt giời bị đe doạ thoát khỏi cái số phận hẩm hiu.
Xôpi rời khỏi đại lộ Brốt-uê. Con đường dẫn tới hòn đảo Bléc-oen hấp dẫn bằng một bữa ăn tựa như không dành cho một tay sành ăn. Phải tìm cách khác để ngồi tù vậy.
Ở góc đại lộ Sáu, ánh đèn điện và các loại hàng hóa trưng bày khéo léo ở tủ kính một cửa hiệu trông thật là quyến rũ. Xôpi nhặt một hòn đá, đập mạnh vào mặt kính. Người ta chạy xô đến góc phố đó, một tên cảnh sát dẫn đầu. Xôpi đứng yên, hai tay đút túi, mỉm cười nhìn những chiếc khuy đồng lấp lánh. Tên cảnh sát nóng nảy hỏi:
- Đứa đập vỡ kính đâu?
- Ông không nghĩ là tôi cũng có thể dính dáng đến việc này chứ? – Xôpi hỏi lại, mỉa mai, nhưng thân mật như một kẻ chào đón vận may đã tới.
Trong ý nghĩ của tên cảnh sát, hắn từ chối việc tiếp nhận Xôpi, thậm chí chỉ là một đầu mối thôi. Kẻ đập vỡ kính không đứng lại để trò chuyện với người thừa hành pháp luật. Hắn phải trốn ngay chứ. Tên cảnh sát nhìn thấy một người ở giữa đường đang đuổi cho kịp chuyến xe. Hắn rút dùi cui, tham gia vào cuộc chạy đua. Đã hai lần không thành công, Xôpi ngập ngừng bỏ đi, trong lòng chán ngán.
Phía bên kia đường có một hiệu ăn vẻ không kiêu kì, thích hợp với những dạ dày to và những túi tiền nhỏ. Đĩa ăn quá dày, nhưng khăn giải bàn lại quá mỏng. Căn phòng đặc những người, nhưng xúp lại loãng. Đôi giày “tố cáo”, cái quần “phô bày” của Xôpi mang vào nơi này không bị phản đối Y ngồi vào một bàn, tiêu thụ bít-tết, bánh nướng, bánh phồng, bánh chả, rồi y tiết lộ cho người hầu bàn biết là y không hề có một xu dính túi. Xôpi nói:
- Bây giờ thì có việc đấy, đi gọi cảnh sát đi. Đừng để một người lịch sự phải chờ đợi.
- Với anh bạn thì chằng cần cảnh sát đâu, – người hầu bàn nói, giọng ngọt như mía lùi và ánh mắt tươi như rượu anh đào trong cốc cốc-tai (6) Manhatan. - Nào, Côn!
Hai người hầu bàn gọn gàng quăng Xôpi nằm nghiêng về phía bên trái trên cái vỉa hè vô tình. Y đứng dậy, duỗi hết khớp xương này đến khớp xương khác như người thợ mộc mở cái thước gấp, rồi y phủi quần áo. Việc bị bắt tựa hồ chỉ là một giấc mơ hoa. Hòn đảo như quá xa xôi. Một tên cảnh sát đứng trước cửa hiệu thuốc cách đấy hai nhà, cười và bước về phía cuối phố.
Đi qua năm dãy nhà thì Xôpi mới lấy lại được can đảm để ve vãn việc bị bắt. Y dại dột tự cho cơ hội lần này là “dễ ăn”. Một người phụ nữ trẻ, dáng diệu giản dị, có vẻ hài lòng đang đứng trước tủ kính, vui vẻ ngắm cảnh bày những cái cốc đựng xà phòng cạo râu và các bình đựng mực. Cách tủ kính hai thước là một tay cảnh sát to lớn; điệu bộ nghiêm khắc, đang tựa vào cái vòi nước.
Xôpi dự định sẽ đóng vai một “tay chơi” bỉ ổi, khả ố. Vẻ lịch sự, có giáo dục của nạn nhân của hắn, cùng với tay cảnh sát tận tâm đứng gần đã cổ vũ Xôpi tin rằng ngay lập tức móng vuốt êm dịu của chính quyền sẽ tóm lấy tay y và đảm bảo chắc chắn cho y chỗ cư trú mùa đông ở đúng hòn đảo nhỏ bé, hòn đảo nhỏ bé đến chật hẹp ấy.
Xôpi kéo cho thẳng chiếc nơ kiểu thắt sẵn của bà truyền giáo cho y, phanh cổ tay áo ra, kéo chiếc mũ nghiêng nghiêng ngang tàng, khép nép đi về phía người phụ nữ trẻ. Y liếc mắt đưa tình, đột nhiên đằng hắng, e hèm, cười làm duyên, rồi mặt dạn mày dày giở đủ mọi điệu bộ vô liêm sỉ, bỉ ổi của một “tay chơi”. Xôpi thấy tay cảnh sát đang nhìn mình chằm chằm. Người phụ nữ trẻ bước xa mấy bước, rồi lại chăm chú vào những cái cốc đựng xà phòng cạo râu. Xôpi bước theo, bạo dạn tiến sát gần, nâng mũ lên và nói:
- A, Bêđêliơ? Em có muốn đến giải trí trong sân nhà anh không?
Tay cảnh sát vẫn chăm chú quan sát. Người phụ nữ trẻ bị chòng ghẹo đó chỉ cần vẫy một ngón tay là Xôpi được thực sự lên đường (7) tới chỗ ẩn náu trên đảo. Xôpi đã tưởng tượng đến cái cảm giác ấm áp dễ chịu ở trong đồn cảnh sát. Người phụ nữ trẻ nhìn vào mặt Xôpi, đưa tay ra nắm lấy tay áo y.
- Có chứ, anh Maicơ ạ , – cô ta vui vẻ nói. – Em định bảo anh sớm hơn cơ, nhưng tay cảnh sát đang để ý đấy.
Cô ta bám lấy Xôpi như cây leo bám vào cây sồi, hai người đi qua chỗ tên cảnh sát. Số mệnh tựa hồ đã định cho y tự do.
Tới góc phố, Xôpi giãy khỏi cô bạn, chạy đi. Y dừng lại ở một khu mà về ban đêm đường phố sáng rực rỡ nhất và những trái tim, những lời thề nguyền và những tiếng đàn nhạc nhẹ tênh nhất trần đời. Đàn bà mặc áo lông thú, đàn ông mặc áo khoác ấm áp đang đi lại vui vẻ trong làn gió đông. Xôpi chợt sợ hãi cảm thấy như có một thứ thần chú ghê gớm khiến y không thể nào bị bắt. Ý nghĩ dó làm y khỉếp sợ, thấy một tên cảnh sát đang đường bệ đi lại trước một rạp hát sáng trưng, y chợt nghĩ tới “hành vi làm mất trật tự đường phố”. Y đứng trên vỉa hè, bắt đầu la hét rất to bằng cái giọng khàn khàn của y, lưỡi ríu lại như kẻ say rượu. Y nhảy nhót, hò hét, kêu gào, làm đủ mọi trò náo động trời đất.
Tên cảnh sát quay cái dùi cui, quay lưng về phía Xôpi và kể với một người dân:
- Đó là một gã thuộc đội Yây. Hắn reo mừng trận thắng, đã cho đội trường đại học Hátphớt xơi “trứng”. Có ầm ĩ đấy nhưng không hại gì. Chúng tôi đã được chỉ thị cứ để mặc họ.
Thất vọng, Xôpi liền ngừng những hành động gây huyên náo không có kết quả. Cảnh sát không bao giờ tóm y sao? Y thấy rằng hòn đảo tựa như một thiên đường không thể nào đạt tới được. Y cài khuy chiếc áo mỏng để chống lại gió lạnh.
Trong một hiệu bản xì-gà, y thấy một người ăn mặc lịch sự đang châm điếu thuốc, ánh lửa lập loè. Lúc bước vào hiệu, người đó để chiếc ô lụa ở cạnh cửa. Xôpi vào trong cửa hiệu, cầm chiếc ô, rồi chậm rãi bước ra. Người đang châm thuốc vội vã đuổi theo. Người đó nghiêm giọng nói:
- Chiếc ô của tôi.
- Ờ, thế à? – Xôpi cười khinh bỉ, thoá mạ việc ăn cắp vặt rồi cố ý thay đổi để dùng. – Tôi đã ăn cắp cái ô. Cái ô của anh! Tại sao anh không gọi cảnh sát? Có một người đứng ở góc phố đấy.
Chủ nhân cái ô bước chậm lại, Xôpi cũng bước chậm theo và cảm thấy vận may có lẽ một lần nữa lại không đến với y. Tên cảnh sát tò mò nhìn hai người.
- Tất nhiên, - chủ nhân cái ô nói, - đó là... ờ, ngài biết là có những sự nhầm lẫn… Tôi… Nếu đó là chiếc ô của ngài, tôi mong ngài tha lỗi... Tôi nhặt được trong một hiệu ăn vào sáng nay... Nếu ngài nhận ra đó là chiếc ô của ngài, tại sao… Tôi mong ngài sẽ…
- Tất nhiên đó là của tôi, – Xôpi tai ác nói.
Cái người không còn ô nữa rút lui. Tên cảnh sát vội vã đến giúp đỡ một phụ nữ tóc hung, dáng người cao, mặc chiếc áo biểu diễn nhạc kịch đang đứng ở phố bên kia chờ tàu điện cách hai dãy nhà đang tiến đến gần.
Xôpi đi về hướng đông, qua một đường phố bị đào tung lên để sửa chữa. Y ném chiếc ô vào một cái hố, nguyền rủa bọn mang dùi cui, đội mũ sắt. Bởi vì, y muốn rơi vào tay họ, thì họ coi y như một ông vua không thể nào lại làm những điều gì gọi là sai trái được.
Cuối cùng, Xôpi tới một đại lộ yên tĩnh ở phía đông, nơi mà ánh sáng lờ mờ, tiếng động yếu ớt. Y quay mặt về phía quảng trường Mađixơn, vì bản năng hướng về nhà vẫn tồn tại, ngay cả khi “nhà” chỉ là một chiếc ghế ngoài quảng trường.
Y đến một con đường cụt của một khu yên tĩnh lạ thường. Ở đây có một ngôi nhà thờ cổ kính, kì dị, đứng tách rời ra, hai bên có xây hồi. Ánh sáng êm dịu lọt qua một cửa kính màu tím, phía trong đúng là có một người đang chơi đàn ống, đang nhẹ nhàng lướt tay trên phím đàn để chuẩn bị biểu diễn cho thật chắc tay và chủ động bài thánh ca vào ngày lễ chủ nhật sắp tới. Tiếng nhạc êm ái vọng đến tai Xôpi làm y dán chặt người vào những thanh sắt uốn thành hoa ở hàng rào sắt.
Vầng trăng ở trên cao, trong sáng và êm ả; rất ít người và xe cộ qua lại; những con chim sẻ kêu chiêm chiếp buồn ngủ ở dưới mái hiên, trong một khoảnh khắc, nơi này có vẻ như một nghĩa địa miền quê. Bản thánh ca bay ra ngoài giữ chặt y lại bên hàng rào sắt . Y đã biết bản thánh ca này vào những ngày mà cuộc đời y còn bao gồm những thứ như tình mẹ và hoa hồng, tham vọng và bè bạn, những ý nghĩ trong sáng và những chiếc cổ áo sạch sẽ.
Trạng thái tâm hồn y hoà với ngôi nhà thờ cổ kính đã gây ra trong lòng y một sự thay đổi đột ngột và kì lạ. Y thoáng kinh sợ nhìn thấy cái vực thẳm mà y đã sa xuống, nhìn thấy những ngày nhục nhã, những ham muốn tầm thường, những niềm hi vọng đã chết, những năng lực tiêu tan, những động cơ thấp hèn đã tạo nên cuộc đời y.
Và cũng đúng lúc dó, cõi lòng Xôpi rung động đáp ứng với trạng thái tâm hồn mới lạ này, y quyết định phải đấu tranh mạnh mẽ, ngay tức khắc với số mệnh tuyệt vọng của y. Y sẽ vượt ra khỏi cảnh tối tăm, y sẽ trở lại con người cũ của y, y sẽ chiến thắng cái xấu đang chiếm lĩnh con người y. Hãy còn kịp, y vẫn còn tương đối trẻ. Y sẽ làm sống lại tham vọng sôi nổi ngày xưa và quyết tâm không rời bỏ tham vọng ấy nữa. Những nốt nhạc trang nghiêm và dịu dàng đã dấy lên trong lòng y một cuộc cách mạng. Ngày mai, y nhất định đi vào khu trung tâm thành phố lúc nào cũng ồn ào để tìm việc làm. Một người làm nghề nhập cảng lông thú có lần đã cho y một chân lái xe. Ngày mai, y sẽ tìm ông ta, xin làm việc đó. Y sẽ là một con người làm được một việc gì trên thế gian này. Y sẽ...
Xôpi cảm thấy có một bàn tay nắm lấy cánh tay y. Y quay phắt lại, nhìn thẳng vào khuôn mặt bè bè của một tên cảnh sát.
- Anh làm gì ở đây? – Tên cảnh sát hỏi.
- Không làm gì cả. – Xôpi đáp.
- Thế thì theo tôi! – Kẻ thừa hành pháp luật nói.

- Ba tháng tù ngồi ở đảo. – Viên quan toà trong phiên toà tiểu hình sáng hôm sau tuyên án./.





Chú thích:
(1) Vêduyvian: một vịnh đẹp ở nước Ý.
(2) Chỉ những tên cảnh sát.
(3) Riviera: miền bờ biển ở phía đông nam nước Pháp và tây bắc nước Ý.
(4) Đại lộ Năm: đại lộ sầm uất, sang trọng nhất ở Niu Yoóc. Khu trung tâm của thành phố Niu Yoóc là Manhatan có 12 đại lộ chạy dọc suốt bắc nam và 250 phố chạy từ đông sang tây. Tất cả những đường này đều gọi theo số, không có tên nào khác. Đặc biệt có một đại lộ lớn khác hẳn những đường phố khác, chạy chéo từ đông bắc qua tây nam, gọi là đại lộ Brốt-uê, dài vừa đúng 21 cây số
(5) Ngày lễ Tạ ơn: ngày lễ Tạ ơn Chúa vào ngày thứ năm trong tuần cuối cùng của tháng 11
(6) cốc-tai: loại rượu pha bằng nhiều thứ rượu khác nhau.
(7) Nguyên văn bằng tiếng Pháp: en route
keokimcuong is offline  

Old 01-03-2006, 20:28  

Phá sản!
 
Join Date: 31-12-2005
Posts: 5
KL$: 0

Đêm Ả Rập tại quảng trường Mađixơn




Philip mang chuyến thư chiều đến cho Cacxơn Samơ đang ngồi trong căn nhà gần quảng trường. Ngoài thư tín bình thường còn có hai phong thư có dấu bưu điện nước ngoài.
Một phong thư có gửi kèm theo bức ảnh một phụ nữ. Phong thư kia là một lá thư dài vô tận khiến Samơ ngồi há hốc mồm say sưa đọc mãi. Bức thư đó lại của một người phụ nữ khác gửi, lời lẽ trong thư như lưỡi câu tẩm mật ong ngọt ngào, chêm vào những câu bóng gió, châm chọc sâu cay về người đàn bà gửi thư kèm ảnh.
Samơ xé bức thư ra trăm ngàn mảnh, rồi cất những bước dài đi đi lại lại trên tấm thảm đắt tiền như muốn làm cho nó tơi tả ra. Con thú rừng bị nhốt trong chuồng hành động như thế nào thì con người lạc trong khu rừng rậm hoài nghi cũng hành động như vậy.
Dần đần tâm trạng bồn chồn cũng lắng xuống. Tấm thảm đó không phải là tấm thảm có phép màu nhiệm. Nó cũng chỉ dài có vài mét, đi một tí là hết. Muốn đi ba ngàn dặm đường thì nó chẳng thể giúp gì ông được.
Philip xuất hiện. Không bao giờ anh ta vào hẳn trong buồng, lúc nào cũng chỉ thập thò, cứ như ma trơi.
- Ngài dùng cơm ở đây hay ngoài nhà ạ?
- Ở đây – Samơ nói, – nửa giờ nữa nhé.
Ông ta buồn bã ngồi nghe tiếng gió tháng giêng hú dọc theo phố vắng, nghe phù phù như tiếng kèn tơ-rom-bon thổi.
- À này, – ông vội nói với anh chàng Philip vừa mới đấy đã biến đi, – lúc trên đường về nhà, đến cuối chỗ quảng trường, ta thấy lố nhố người đứng thành hàng dài. Có một người đứng lên trên cái gì ấy, diễn thuyết. Sao những người đó lại đứng xếp hàng ở đấy nhỉ? Mà họ đứng đấy để làm gì hả?
- Thưa ông, họ là những kẻ vô gia cư, – Philip trả lời, – Người đứng trên cái hòm đó cố sức diễn thuyết để những người kia có chỗ ngủ qua đêm. Thiên hạ xúm quanh nghe và cho ông ta tiền. Sau đó ông ta có bao nhiêu tiền đều đem trả cho chủ trọ. Vì vậy họ mới đứng xếp hàng, cứ đến lượt người nào thì người ấy được dẫn đi đến chỗ ngủ.
- Tí nữa đến giờ ăn cơm, – Samơ nói, – anh xuống dẫn một người trong bọn họ lên đây. Anh ta sẽ ăn cơm với ta.
- Dẫn a-a-ai ạ… – Philip cất tiếng lắp bắp. Từ ngày phục vụ ông chủ đến giờ, đây là lần đầu tiên anh ta tỏ ra lúng túng như vậy.
- Chọn ai cũng được, – Samơ nói. – Có điều anh phải xem xem anh ta đừng có say lướt khướt, mà anh ta cũng phải sạch sẽ một tí. Thế nhé.
Cacxơn Samơ đâu có quen đóng vai kẻ làm phúc. Nhưng đêm hôm đó không có thứ thuốc gì có thể làm cho ông ta nguôi nỗi u sầu nên ông ta phải có một cái gì đó thật ngộ nghĩnh, đầy thú vị và mang tính Ả Rập để khuây khoả tâm trạng đôi chút.
Trong nửa giờ, Philip hoàn thành nhiệm vụ làm tên nô lệ của cây đèn thần (2). Những người hầu bàn ở tiệm ăn dưới nhà tất tưởi mang lên gác bữa ăn tối thịnh soạn. Bàn ăn soạn cho hai người rực rỡ trong ánh đèn nến nhảy nhót dưới chụp đèn màu hồng.
Lúc này Philip đứng đường hoàng đẩy lẹ vị khách vào, cứ như đang hộ tống một hồng y giáo chủ – hoặc là một tên trộm bị bắt, chứ không phải là một gã ăn mày đang run cầm cập vừa được lôi từ hàng người vô gia cư xin ngủ nhờ qua đêm kia.
Thường người ta gọi những người như vậy là kẻ vô thừa nhận, nhưng giả dụ có so sánh trong trường hợp đặt biệt ở đây, thì con người này chẳng khác gì một con tàu gặp nạn đang bị bốc cháy, bồng bềnh trôi dạt trong biển đời như ta vẫn thấy. Ngọn lửa bập bùng chiếu sáng trong con người anh ta. Mặt và tay anh ta vừa được rửa xong – một lễ nghi mà Philip kiên quyết thực hiện tựa như lễ tưởng niệm cho nếp ăn ở hàng ngày bị tiêu diệt. Anh ta đứng dưới anh nến, làm cho cảnh bài trí trong phòng trở nên xấu hẳn đi. Mặt anh ta trắng bệch hom hem, bộ râu xồm xoàm che gần đến tận mắt, trông như bộ lông con chó săn đỏ xứ Ái Nhĩ Lan. Philip cũng đã lấy lược chải tóc cho anh ta nhưng không sao làm cho bộ tóc nâu nhạt mượt trở lại, bộ tóc từ lâu đã bện và ăn nếp theo vành mũ tứ thời lúc nào cũng trên đầu. Cặp mắt anh ta đầy vẻ thách thức, tuyệt vọng và xảo trá, trong như mắt con chó tàng bị những kẻ hành hạ dồn vào chân tường. Chiếc áo khoác trơ khố tải cài cúc cao, nhưng trông rõ chiếc cổ vừa lộn xong. Tác phong của anh ta tỏ ra không có gì là lúng túng khi Samơ đứng dậy khỏi ghế phía bên kia bàn ăn tròn.
- Nếu anh cho phép, tôi sẽ vui mừng được mời anh ăn cơm tối nay, – ông chủ nói.
- Tên tôi là Plămmơ – vị khách giang hồ nói, giọng gay gắt và hung hăng. – Nếu là tôi, chắc ông cũng muốn biết tên người sắp ngồi ăn cùng với mình.
- Tôi cũng đang định giới thiệu tên tôi là Samơ, xin mời ông ngồi phía bên kia. – Samơ nói tiếp, hơi có vẻ vội vã.
Plămmơ quần áo lôi thôi, khom gối xuống để cho Philip đẩy cái ghế đến cho anh ta ngồi. Anh ta có dáng dấp ngày xưa thường ngồi tại những nơi có người phục vụ. Philip bắt đầu mang món cá trống và dầu ô liu.
- Tuyệt! – Plămmơ nói như quát lên, – cho ăn theo món hả? Hầy, thưa Hoàng đế vui tính của thành Batđa, tôi xin làm nàng Sêhêradat của ngài để kể chuyện cho ngài nghe cho đến khi không còn món ăn gì thì thôi. Tôi công nhận ngài là người giàu có đầu tiên có hương vị phương Đông chân chất mà tôi phát hiện ra từ đầu đông tháng giá đến giờ, đã đón tay làm phúc một cách sang trọng đến vậy. Thật may mắn, tôi đứng thứ bốn mươi ba trong hàng cơ đấy. Tôi vừa đếm xong xem mình đứng thứ mấy thì vị sứ giả đầy thú vị của ngài đến mời tôi đi ăn tiệc. Thế là đêm nay tôi được dịp may kiếm được nơi trú chân chẳng khác gì dịp may mình được làm tổng thống trong nhiệm kì sắp tới. Ngài muốn nghe câu chuyện buồn về cuộc đời của tôi theo cách nào, thưa ngài An Rasit (3), cứ mỗi món ăn một chương nhé hay toàn bộ câu chuyện kết thúc bằng những điếu xì gà và cà phê?
- Đối với anh, sự việc này cũng không có gì là lạ thường lắm đâu, – Samơ mỉm cười nói.
- Xin thề có Chúa trời chứng giám! – Người khách trả lời. – Niu-Yooc đầy những tên Harun An Rasit bần tiện, chẳng khác gì thành Batđa đầy những ruồi nhặng. Tôi buộc lòng phải đi kể chuyện để đổi lấy bữa ăn rất nhiều lần rồi. Đố tìm được một ai ở Niu-Yooc này cho không một cái gì! Những Rasit này có cho ta một bữa cơm từ thiện thì cũng chỉ để thoả mãn trí tò mò của họ thôi. Hầu hết bọn họ chỉ cho ta một xu và một bát cơm hổ lốn, còn một dúm trong bọn họ sẽ đóng vai kẻ làm phúc để đãi ta một miếng bít-tết, nhưng tất cả bọn họ sẽ cưỡi lên đầu lên cổ ta, ép ta đến bao giờ tôi ra bản tự truyện, với đầy đủ những ghi chú, những phụ lục và những mẩu chuyện chưa được đăng. Ô, ở cái thành phố Batđa có đường xe điện ngầm (4) cổ, nhỏ bé này khi nhìn thấy cái gì ăn được là tôi biết phải xử lí thế nào rồi. Tôi đập đầu xuống đường nhựa ba lần và sẵn sàng thêu dệt chuyện huyên thuyên để kiếm bữa ăn tối. Tôi công nhận mình chẳng khác gì danh ca Tômmi Tăccơ đã quá cố, người buộc phải đánh đổi giọng hát của mình lấy bát cơm đã chén trước đó.
- Tôi không cần chuyện của anh, – Samơ nói, – xin nói thật là bỗng nhiên tôi nảy ra ý nghĩ muốn vời một người lạ mặt đến ăn cơm tối. Xin anh cứ an tâm, đừng lo tôi tò mò.
- Ô, rõ chỉ vớ vẩn! – Vị khách kêu lên, vừa húp sùm sụp món xúp. – Chuyện ấy đối với tôi có đáng gì. Tôi cũng giống như quyển tạp chí phương Đông có bìa đỏ sáng sủa, và bài nào hay là người ta cắt liền. Thật ra những người đi ăn chực nằm chờ như tôi cũng thuộc hạng đại loại như vậy. Thiên hạ cứ luôn phân vân không hiểu cái gì đã đưa chúng tôi xuống tận đáy xã hội. Nếu được một miếng bánh sanđuych và một cốc bia, tôi sẽ kể cho họ nghe nguyên nhân chính là do món tửu gây ra. Nếu được miếng thịt bò muối, xúp bắp cải và một cốc cà phê, tôi kể cho họ nghe câu chuyện về một tên chúa tể nhẫn tâm làm tôi thất nghiệp sau khi phải nằm nhà thương sáu tháng. Nếu được một miếng bít-tết và mất hai mươi lăm xu mà được ngủ qua đêm, tôi sẽ kể tấn thảm kịch ở phố Uôn, trong đó cơ đồ bị cuốn sạch sành sanh và sự xuống dốc diễn ra như thế nào. Đây là lần đầu tiên tôi được cho ăn một bữa tối thịnh soạn trong một bầu không khí như thế này. Tôi chưa nghĩ ra được chuyện gì cho hợp với cảnh này. Tôi sẽ kể để ông nghe, ông Samơ ạ, tôi sẽ kể cho ông nghe sự thật về chuyện này nếu ông muốn nghe. Ông tin chuyện này còn khó hơn ông tin chuyện bịa đặt đấy.
Một tiếng đồng hồ sau, vị khách Ả Rập ngả người ra sau ghế thở phào thoả mãn, vừa lúc đó Philip mang cà phê và xì gà vào, và dọn bàn ăn đi.
- Có bao giờ ông nghe tiếng Sêra Plămmơ không? – Anh ta hỏi, mỉm cười đến lạ.
- Tôi có nhớ cái tên ấy, – Samơ nói – Anh ta là một hoạ sĩ thì phải, cách đây vài năm còn là một người rất nổi tiếng.
- Năm năm rồi – vị khách nói, – vậy mà tôi lặn chìm nghỉm luôn không hề sủi tăm. Chính tôi là Sêra Plămmơ đây! Tôi bán bức tranh chân dung cuối cùng giá hai nghìn đôla. Sau đó, tôi không sao kiếm được người ngồi để tôi vẽ, thậm chí không lấy tiền nữa.
- Làm sao lại thế? – Samơ không chịu được, đành phải hỏi.
- Chuyện cũng đến buồn cười, – Plămmơ trả lời, buồn bã. – Bản thân tôi cũng không sao hiểu nổi. Trong một thời gian tôi làm ăn lên như diều. Đám nhà giàu rất quen biết tôi, tíu tít vời tôi đến vẽ. Báo chí gọi tôi là hoạ sĩ hợp thời. Thế rồi những chuyện buồn cười xảy ra. Cứ khi nào tôi vẽ xong ai đó, người ta lại đến xem, thì thầm và nhìn nhau rất lạ lùng.
Tôi liền khám phá ra ngay sự rắc rối. Tôi có sở trường nêu bật trên khuôn mặt của bức chân dung cá tính giấu kín của người ngồi vẽ. Tôi không biết làm thế nào mình lại vẽ được thế – tôi chỉ vẽ cái mình nhìn nhận ra thôi – nhưng tôi biết mình làm thế là chỉ hỏng việc. Một số người ngồi vẽ nổi giận đến sợ và quẳng trả bức tranh tôi vẽ. Tôi có vẽ chân dung một phu nhân rất đẹp và nổi tiếng trong giới thượng lưu. Lúc vẽ xuống, ông chồng nhìn vào bức tranh, mặt mày trông đến lạ kì, và tuần sau ông ta đòi li dị liền.
Tôi nhớ một trường hợp tôi vẽ một vị chủ nhà băng lừng danh. Lúc tôi trưng bày bức tranh ở trong phòng vẽ của mình, có một người quen của ông ta đến đó ngắm. “Ôi, lạy Chúa!”, ông ta nói, “thật ông ta trông đến nỗi thế này sao?”. Tôi nói bức tranh đó hoàn toàn thật như ở ngoài. “Chưa bao giờ tôi thấy cặp mắt ông ta lại thể hiện như vậy”, ông ta nói. “Tôi thiết nghĩ mình phải đến Nhà Ngân hàng thành phố để chuyển ngay tài khoản”. Và ông ta đã tìm đến đó thật, nhưng tài khoản của ông ta đã biến mất cùng ông chủ nhà băng.
Chẳng được bao lâu thì tôi bị mất nghề. Thiên hạ không muốn sự hèn hạ bí mật của mình bị lộ nguyên hình trên tranh. Họ có thể mỉm cười và nhăn nhó mặt mày để lừa dối bạn, nhưng đã lên tranh thì không thể làm như vậy được. Tôi không sao vẽ tiếp được, vì không còn ai người ta muốn vẽ, và thế là tôi đành bỏ nghề. Tạm thời tôi làm hoạ sĩ trên báo hàng ngày, sau đó làm cho một thợ in thạch bản, nhưng rồi tôi lại bị rắc rối với công việc. Nếu tôi có vẽ qua bức ảnh chụp thì việc vẽ đó cũng vẫn thể hiện rõ những tính cách và những nét mà ông không thể tìm thấy ở trên bức ảnh, nhưng tôi cảm thấy chúng có ở người thật. Khách hàng la ó ầm ĩ, đặc biệt các bà, cho nên tôi không thể nào duy trì công việc được lâu. Vì vậy, tôi chán nản mượn chén cho khuây khoả nỗi buồn. Rồi chẳng bao lâu tôi đã đứng trong hàng ngũ những người xin ngủ nhờ và làm nghề kể chuyện xin ăn ở những cửa hàng ăn làm phúc. Câu chuyện thật này có làm ngài mệt không, thưa Hoàng đế xứ Hồi. Nếu ngài muốn, tôi có thể thay đổi chủ đề và chuyển sang thảm hoạ ở phố Uôn, nơi đã từng làm cho cuộc đời tôi tàn tạ, nhưng như vậy đòi hỏi phải mất nước mắt và tôi e rằng tôi không có khả năng làm ngay được sau một bữa ăn ngon như vậy.
- Không sao, không sao – Samơ nói vui vẻ. – Ông làm tôi thích thú lắm. Thế tất cả những bức chân dung đều bóc trần nét xấu nào đó, hay cũng có một số không bị cái bút vẽ kì dị của ông thử thách?
- Cũng có một số. – Plămmơ trả lời. – Trẻ con nói chung, khá nhiều phụ nữ và đàn ông, không phải tất cả mọi người đều xấu, phải không ông? Khi họ tốt thì những bức tranh cũng thể hiện cái tốt của họ. Như tôi đã nói, tôi không giải thích, mà là tôi nói với ông sự thật.
Trên bàn làm việc của Samơ có một bức ảnh mà ông ta nhận được vào hôm có thư đến buổi chiều. Mươi phút sau, ông ta đề nghị Plămmơ vẽ phác từ bức ảnh đó bằng phấn màu. Sau một tiếng đồng hồ, người nghệ sĩ đứng lên và dang tay tỏ ra mệt mỏi.
- Xong rồi đây, – anh ta ngáp. – Xin lỗi vì phải vẽ lâu quá. Tôi thích thú với công việc. Lạy Chúa! Hơn nữa tôi mệt quá. Đêm hôm qua không được chợp mắt một tí nào. Thưa vị chỉ huy của Lòng Trung Thành, ngài có cho bây giờ sẽ là một đêm ngon giấc không?
Samơ đưa anh ta ra đến cửa và giúi vào tay anh ta mấy đồng.
- Chà, xin ông, – Plămmơ nói. – Những ai đã rơi xuống tận đáy rồi cũng chẳng dại gì mà khó tính khi nhận tiền của những người làm phúc tình cờ. Xin cảm ơn. Xin cảm ơn cả bữa ăn thịnh soạn nữa. Đêm nay, tôi sẽ ngủ ngon lành và mơ về Batđa. Tôi hi vọng đến sáng nó sẽ dừng trở thành giấc mơ. Xin tạm biệt, vị Hoàng đế tuyệt vời nhất!
Samơ lại bồn chồn đi trên tấm thảm. Nhưng ông ta chỉ đi từ cái bàn trên có đặt bức phác thảo bằng phấn màu đến cuối gian phòng. Mấy lần ông ta cố tiến lại gần mà không sao làm được. Ông ta trông rõ màu xám, màu vàng và màu nâu trong số các màu sắc, nhưng do sợ hãi nên quanh bức tranh như có một bức tường được dựng nên ngăn ông ta từ xa. Ông ta ngồi xuống và cố trấn tĩnh lại. Ông ta đứng phắt dậy và rung chuông gọi Philip.
- Trong nhà này có một hoạ sĩ trẻ, tên là Rainơman gì đó, anh có biết anh ta anh ta ở buồng nào không? – ông ta nói.
- Tầng trên cùng, buồng phía trước, thưa ngài. – Philip nói.
- Thế anh lên mời anh ta vui lòng đến đây một lát nhé.
Rainơman đến ngay. Samơ tự giới thiệu.
- Ông Rainơman, – ông ta nói, – ở trên cái bàn kia có một bức phác thảo nhỏ bằng phấn màu. Xin ông cho ý kiến về tài năng nghệ sĩ vẽ bức tranh đó và về bản thân bức tranh đó, được như vậy tôi xin đa tạ ông.
Người hoạ sĩ trẻ tiến đến bên bàn và cầm bức tranh phác thảo lên. Samơ nửa như quay mặt đi, tựa lưng vào ghế:
- Ông, ông… thấy thế nào? – Ông ta chậm rãi hỏi.
Người nghệ sĩ nói:
- Về phương diện bức tranh, tôi không có đủ lời để ca ngợi. Đó là tác phẩm của một bậc thầy – những nét rõ, đẹp, rất thật. Nó làm cho tôi hơi băn khoăn. Đã nhiều năm nay tôi chưa được thấy một tác phẩm vẽ phấn màu nào tuyệt đến thế.
- Thế ông thấy thế nào, xét về khuôn mặt, chủ đề, so với bức ảnh gốc?
- Khuôn mặt này là một trong những khuôn mặt của thiên thần. Cho phép tôi hỏi, đây là ai?
- Chính là vợ tôi đó! – Samơ kêu lên, xoay người, vồ lấy người nghệ sĩ đang còn ngơ ngác, nắm chặt tay anh ta và vỗ vào lưng anh ta. – Nhà tôi đang chu du ở châu Âu. Anh bạn hãy cầm lấy bức phác thảo này và theo đó, anh hãy vẽ bức tranh tuyệt nhất từ trước tới giờ của anh đi. Tôi hứa sẽ trả anh với giá thật hậu hĩ.




Mạnh Chương dịch




Chú thích
(1) Madison Square : một trong ba quảng trường ở Niu-Yooc, mang tên James Madison (1751 – 1836), tổng thống thứ tư của nước Mỹ vào năm 1809 – 1817.
(2) Ám chỉ thần đèn trong truyện Nghìn lẻ một đêm.
(3) Haroun Al Raschid, hoàng đế của thành Batđa vào những năm 786 – 809 sau CN, được nhắc tới trong truyện Nghìn lẻ một đêm.
(4) Ý chỉ thành phố Niu-Yooc.
keokimcuong is offline  

Old 01-03-2006, 20:29  

Phá sản!
 
Join Date: 31-12-2005
Posts: 5
KL$: 0

Căn phòng đủ tiện nghi




Một số người sống trong một quận gạch đỏ dưới phía đông của thành phố luôn luôn thiếu ổn định, mãi trôi giạt, lang thang. Tuy vô gia cư, họ vẫn có hàng trăm chỗ ở. Họ nhảy từ phòng cho thuê này qua phòng khác (phòng nào cũng đủ tiện nghi nội thất), luôn trong cảnh lông bông, lông bông về chỗ trú ngụ, lông bông về tâm hồn và tư tưởng. Họ ca hát “Tổ ấm gia đình” trong điệu dân ca Mỹ rộn ràng, họ mang đồ tế nhuyễn trong một cái thùng đáng lẽ chỉ để đựng đồ linh tinh, dây leo làm cảnh quấn quanh cái mũ rộng vành ta thường thấy trong các bức họa, một cái cây nhỏ là cây bóng mát.

Vì thế, những ngôi nhà của quận này, với hàng nghìn nhân khẩu, có hàng nghìn câu chuyện để kể, đương nhiên, phần lớn đều vô vị, nhưng sẽ là điều lạ lùng nếu ta không thể tìm ra một vài bóng ma trong đám dân cư lông bông này.

Một buổi tối, một thanh niên lượn vòng, bấm chuông những toà nhà màu đỏ đổ nát này. Đến toà nhà thứ mười hai, anh đặt túi hành lý lép kẹp trên bậc thềm, lau cái trán đã lấm đầy bụi. Cái chuông phát ra âm thanh khe khẽ và xa xôi trong những chiều sâu nào đấy hun hút, trống rỗng.

Một người đàn bà đi ra cửa. Bà làm anh liên tưởng đến một con sâu bệnh hoạn, háo ăn háo uống đã đục khoét cả một cái quả chỉ chừa lại vỏ cứng và bây giờ đang lo kiếm khách trọ nào đấy có thể xơi được, để lấp đầy chỗ hổng. Anh hỏi bà có phòng trống cho thuê hay không.

Bà trả lời, tiếng phát ra từ cổ họng, cổ họng dường như được lót lông thú:

- Mời vào. Tôi có tầng ba, phía sau, đã trống một tuần nay. Anh muốn xem không?

Người thanh niên theo bà đi lên cầu thang. Một luồng ánh sáng nhợt nhạt không rõ phát ra từ đâu lắp bớt những khoảng tối trong các hành lang. Họ bước không một tiếng động nào trên một tấm thảm mà cái khung cửi dệt của nó hẳn phải không dám nhìn nhận nó nữa. Dường như tấm thảm đã trở nên một loài thực vật, trong bầu không khí nặng không hề có ánh mặt trời, nó đã bị thoái hoá thành một lớp địa y lùm xùm hay rêu lan tràn mọc từng mảng đến tận cầu thang, nó trơn nhớt dưới chân như là một chất hữu cơ. Ở mỗi chỗ ngoặt của cầu thang là những hốc lõm trên tường. Có lẽ một loại cây cỏ nào đó đã từng mọc trong đấy. Nếu đúng thế, hẳn mấy cây cỏ đó đã tàn lụi trong bầu không khí hôi hám. Có thể có những bức tượng của các vị thánh đã được đặt ở đấy, nhưng ta có thể suy luận dễ dàng là ma quỷ đã lôi họ qua bóng tối xuống những vực sâu có trang bị đồ đạc trần tục ở phía dưới.

Bà chủ nói qua cổ họng được lót lông thú:

- Phòng này đây. Phòng này tốt lắm. Ít khi trống. Mùa hè vừa rồi có người đứng đắn thuê - không gây rắc rối gì cả, lại còn trả tiền trước. Nước ở cuối hành lang. Sprowls và Mooney đã thuê ở đây ba tháng. Họ diễn trên sân khấu văn nghệ tạp kỹ. Cô B’retta Sprowls - chắc ông có nghe nói đến cô ấy - À, mà đấy chỉ là tên sân khấu - trên tủ quần áo ngay đây là nơi họ treo giấy hôn thú, có đóng khung đàng hoàng. Vòi ga ở đây, có nhiều tủ quần áo, ông thấy đấy. Ai cũng thích phòng này. Không mấy khi trống.

- Bà có nhiều nghệ sĩ sân khấu thuê phòng ở đây không?

- Họ đến rồi đi. Giới sân khấu có thuê một số phòng ở đây. Đúng thế, ông ạ, nơi đây là quận sân khấu. Mấy diễn viên không bao giờ ở lâu một chỗ nào cả. Một số có thuê ở đây. Vâng, họ đến rồi đi.

Anh thanh niên nhận thuê phòng, trả trước một tuần. Anh bảo anh cảm thấy mệt và muốn nhận phòng ngay. Anh đếm tiền. Bà chủ bảo phòng đã sẵn sàng, ngay cả khăn lau và nước đều sẵn sàng. Khi bà chuẩn bị ra ngoài, anh thanh niên hỏi câu hỏi anh đã có trên đầu môi cả nghìn lần:

- Có một cô gái trẻ - Cô Vashner, cô Eloise Vashner - bà có nhớ cô đã đến thuê ở đây không? Rất có thể cô hát trên sân khấu. Da trắng, tầm vóc trung bình, với tóc vàng kim đo đỏ và một bớt sẫm gần lông mày bên trái.

- Không, tôi không nhớ tên. Giới sân khấu thay đổi tên liên tục cũng như họ thay đổi phòng. Họ đến rồi đi. Không, tôi không nhớ tên này.

Không. Luôn luôn là không. 5 tháng điều tra liên tục rồi không tránh khỏi vô vọng. Bỏ rất nhiều thì giờ ban ngày để hỏi han mấy ông bầu, nhân viên đại diện, trường kịch nghệ, ban hợp xướng. Ban đêm trà trộn trong số khán giả của các sân khấu từ những nhà hát đầy ngôi sao đến các phòng ca nhạc hạ cấp. Anh, người yêu cô nhất trần đời, đã cố công tìm kiếm cô. Anh chắc chắn là từ khi cô biến khỏi nhà, thành phố thênh thang bao quanh toàn là nước này chứa chấp cô ở đâu đấy, nhưng nó như là một vũng lầy khủng khiếp, luôn luôn xoáy động, không có nền chắc chắn, các vật thể nổi hôm nay bị chìm lấp ngày mai trong bùn nhớt.


Căn phòng đủ tiện nghi nội thất đón người khách mới nhất với tia sáng đầu tiên của lòng hiếu khách giả tạo, một thái độ chào đón tất bật, hốc hác, máy móc như là nụ cười đặc biệt của một ả giang hồ. Sự thoải mái hiện đại đến từ ánh sáng phản chiếu từ đồ nội thất rã mục, tấm nệm thêu xơ xác của cái phô-tơi và hai chiếc ghế, tấm gương soi toàn thân rẻ tiền đặt giữa hai cửa sổ, từ một hai khung ảnh sỗ sàng và khung giường bằng đồng đặt ở góc phòng.

Người khách trọ ngồi ngả người trên ghế, bất động, trong khi căn phòng, hoang mang trong ngôn từ như thể là một phòng trọ trong Tháp Babel, cố gắng thuyết minh về chức năng cho thuê đa dạng của nó.

Cái tấm thảm với lắm mùi khác nhau, hình chữ nhật thêu hoa, giống như hòn đảo vùng nhiệt đới bao quanh bởi một vùng biển là tấm lót sàn vấy bẩn, phồng lên chỗ này, tọp xuống chỗ nọ. Trên bức tường dán giấy màu tươi sáng là những tấm hình đi theo những người vô gia cư từ nhà này đến nhà nọ. Những góc cạnh đạo mạo một cách khắc khổ của cái bệ lò sưởi bị che phủ một cách tồi tệ trong cái màn cửa theo mốt thời trang, bị kéo xệch dúm dó về một bên cứ như là tấm vải choàng của vũ nữ ba lê vùng rừng già Amazon ở Nam Mỹ. Trên cái bệ là xác một con tầu chỏng chơ được mang vào bờ khi một cánh buồm may mắn mang chúng đến bến cảng tươi mát - một hai bình hoa vô duyên, ảnh của mấy diễn viên, một lọ thuốc, vài lá bài tây lạc lõng khỏi cỗ bài.

Khi bản mật mã trở nên rõ ràng từ chữ này qua chữ khác, những dấu hiệu nhỏ nhoi còn sót lại sau cuộc diễu hành của những người khách trọ trong căn phòng đủ tiện nghi nội thất trở nên có ý nghĩa. Cái khoảnh tấm thảm xơ xác trước cái bàn phấn bảo rằng những người phụ nữ dễ thương đã đến hàng đoàn. Những dấu tay bé tí trên bức tường nói đến những tù nhân nhỏ tuổi cố lần mò tìm đường ra ánh nắng và không khí. Một vết bẩn vương vãi, toả ra như cái bóng của một bom bùng nổ, là chứng tích của một cái cốc hay chai va vào, tung toé ra lên tường chất đựng bên trong. Trên mặt gương soi toàn thân là tên người “Marie” viết nghệch ngoạc bằng kim cương. Dường như lần lượt những khách trọ trong căn phòng đủ tiện nghi đã trút ra cơn giận dữ - có lẽ không thể chịu nổi vẻ lạnh lùng hào nhoáng rẻ tiền của nó - và đem tất cả cuồng nhiệt ra phá phách. Bàn ghế tủ giường bị đẽo gọt và trầy trụa, cái ghế bành bị móp méo vì mấy lò xo bung ra, trông như là con quái vật khủng khiếp đã bị sát tử trong cơn quằn quại loạn cuồng. Một cơn quấy động nào đấy lộ liễu hơn đã sớt cái bệ lò sưởi đi một lát lớn. Mỗi thanh gỗ sàn tạo một mảng riêng rẽ và kêu thét như là trong cơn đau đớn riêng biệt của từng cá thể. Có vẻ khó tin là những người có thời từng gọi căn phòng này là “nhà” lại có ác ý gây ra bao đau thương như thế cho căn phòng. Và tuy nhiên, có thể là bản năng do ý niệm về “nhà” bị lừa gạt - vốn đã tồn tại một cách đui mù sau cơn giận dữ đầy bất bình đối với cơn phẫn nộ của những người ở trọ. Nếu ta là chủ một túp lều, ta vẫn quét dọn, trang hoàng và giữ gìn nó.

Anh khách trẻ ở trọ, gọn người trong ghế, để những ý tưởng như thế lướt qua êm ái trong đầu anh, trong khi những âm thanh và những mùi hương - đều có đủ tiện nghi nội thất - lan toả vào căn phòng. Anh nghe trong một căn phòng tiếng khúc khích và chuỗi cười vang buông thả không kiềm chế, trong những phòng khác một giọng độc thoại trách mắng, tiếng xúc xắc lanh canh, tiếng ru con và một tiếng khóc sụt sùi, tầng trên là tiếng đàn banjo gầy đầy nhiệt tình. Ở đâu đấy có những cánh cửa đóng sầm; cái thang máy kêu thét không ngừng, một con mèo rên rỉ thảm hại trên hàng rào sân sau. Và anh thở hơi thở của toà nhà - hương vị ẩm lạnh hơn là một mùi - vị nồng nồng lạnh lẽo, mốc meo như thể từ những hố ngầm dưới đất pha trộn với hương sực nức của véc-ni và đồ gỗ mục nát đã lên nấm mốc.

Và thình lình, khi anh ngả người như thế, mùi hoa mignonette ngọt dịu tràn ngập căn phòng. Mùi hương dường như đến theo một cơn gió thoảng, với sự chắc chắn, thơm tho và khẳng định thành một hương vị khác có sự sống. Và người con trai thốt lên: “Gì thế, hở em yêu?” như thể là có tiếng gọi anh, rồi anh đứng bật dậy, nhìn chung quanh. Mùi hương nồng nàn bám lấy anh và bao quanh lấy anh. Anh dang cả hai tay ra đón nó, mọi tri giác của anh trong nhất thời đều bị hoang mang, trộn lẫn. Làm thế nào một mùi hương có thể gọi được anh? Chắc chắn, đấy phải là một linh hồn. Nhưng mà, có phải đấy là một âm thanh đã chạm đến anh, đã ve vuốt anh?

“Nàng đã ngụ ở phòng này”, anh thốt lên và bật người ra để níu lấy một ít, vì anh biết anh có thể nhận ra cái gì đấy dù nhỏ nhặt nhất thuộc về nàng hay cái gì đấy nàng đã chạm tay đến. Mùi hương mignonette này, mùi hương nàng vẫn yêu thích và biến thành mùi của riêng nàng, đã từ đâu đến?

Căn phòng đã được dọn dẹp một cách cẩu thả. Vương vãi trên chiếc khăn mỏng dính đậy cái bàn phấn là khoảng nửa tá kim cài tóc - những người bạn thầm kín, khó phân biệt nhau của giới phụ nữ, thuộc phái yếu, với cảm hứng vô hạn và một thể ngôn ngữ không thể truyền thông được. Anh bỏ qua những món này, hiểu rõ chúng hoàn toàn thiếu khả năng chứng minh ai là ai. Khi lục lọi trong mấy ngăn kéo của cái bàn phấn, anh tìm thấy một khăn tay nhỏ bị vứt bỏ, nhàu nát. Anh áp nó vào mặt mình. Nó có mùi cây vòi voi nồng nặc xấc xược, anh ném nó xuống sàn nhà. Trong một ngăn kéo khác anh tìm ra vài cúc áo, một tờ chương trình nhà hát, một thẻ cầm đồ, hai mẩu kẹo đường, một lô cuốn sách nói về cách đoán mộng. Trong ngăn kéo cuối cùng là một kẹp tóc bằng vải sa-tanh đen, khiến anh dừng tay, vội bốc lấy nó, giữa băng giá lạnh và lửa nóng cháy. Nhưng cái kẹp tóc cũng chỉ là loại trang sức của nữ giới, khiêm tốn, thông thường và vô nhân cách, không nói lên được điều gì.

Và rồi anh lùng sục khắp phòng như con chó săn đánh hơi con mồi, lướt qua bức tường, bò trên hai chân và hai tay để xem xét từng góc kẹt của tâm trải sàn phập phồng sục sạo cái bệ lò sưởi và mấy cái bàn, màn cửa, màn treo, cái tủ nhỏ ở góc phòng, để tìm kiếm một dấu vết sinh động, dù anh không thể nhận ra là nàng đã ở bên anh, xung quanh anh, tựa vào anh, ở trong anh, bên trên anh, bám lấy anh, âu yếm với anh, gọi anh qua mọi cảm nhận tính tế hơn, đến nỗi ngay những giác quan đơn sơ nhất của anh cũng nhận được tiếng gọi. Một lần nữa, anh trả lời: “Vâng, em yêu!”, và quay người, đôi mắt rừng rực, để nhìn vào khoảng không, vì lẽ anh không thể nhận ra bóng hình, màu sắc tình yêu và đôi vòng tay mở rộng trong mùi hương của hoa mignonette. Ôi, Chúa ơi! mùi hương ấy đến từ đâu và từ bao giờ mùi hương có tiếng nói để kêu gọi? Thế là anh lần mò xung quanh.

Anh vùi mình trong các kẽ ngách và góc kẹt và tìm thấy nút chai và những điếu thuốc lá. Anh bóp chúng bẹp gí trong khinh rẻ. Nhưng có lúc anh tìm thấy trong một nếp gấp của tấm trải sàn nhà một điếu xì-gà đã hút dở và anh lấy chân chà nó với tiếng càu nhàu sắc lạnh. Anh sàng lọc cả căn phòng từ đầu này sang đầu kia. Anh tìm thấy những chứng tích lặt vặt đáng chán và hạ cấp của nhiều khách trọ lãng tử, trong khi không thấy dấu vết nào của một người có thể đã thuê phòng ở đây, người mà linh hồn dường như lảng vảng quanh đây.

Và rồi anh nghĩ đến bà chủ nhà. Anh chạy từ căn phòng bị ma ám xuống mấy bậc thang, đến một cánh cửa có khe nứt toả sáng ra ngoài. Bà chủ nhà ra mở cửa. Anh cố gắng trấn áp nỗi xúc động. Anh van nài:

- Bà có thể cho tôi biết, ai đã thuê căn phòng đó trước khi tôi đến?

- Vâng, thưa ông. Tôi có thể cho ông biết lần nữa. Đấy là Sprowls và Mooney, như tôi đã nói. Tôi nói cô B’retta Sprowls trình diễn ở các nhà hát, nhưng thực ra là bà Mooney. Nhà của tôi nổi tiếng là đứng đắn. Giấy hôn thú, có đóng khung, treo vào cái đinh bên trên.

- Cô Sprowls là người như thế nào - ý tôi muốn nói về ngoại hình?

- Sao cơ? Tóc đen, thưa ông, thấp người, tròn trĩnh, với khuôn mặt trông khôi hài. Họ đã đi ngày thứ ba tuần rồi.

- Và trước họ, ai đã ở đấy?

- Sao cơ? Đấy là một ông làm nghề khuân vác. Ông ta đi mà còn thiếu tiền thuê phòng một tuần. Trước ông là cô Crowder và đứa con của cô ấy, họ ở bốn tháng. Trước nữa là ông Doyle, tiền phòng do các đứa con trả. Ông thuê trong sáu tháng. Đấy là một năm nay, trước nữa thì tôi không nhớ.

Anh cảm ơn bà và lủi thủi trở về phòng. Căn phòng đã chết. Hương thơm cho nó sự sống đã không còn nữa. Mùi hương hoa mignonette đã ra đi. Thay vào đấy là mùi cũ kỹ, nặng nề của đồ đạc lên mốc meo, của bầu không khí ngột ngạt như là trong kho hàng.

Hy vọng tàn rụi đã làm cạn kiệt mọi niềm tin của anh. Anh ngồi nhìn chăm chăm ngọn đèn ga vàng vọt. Rồi anh đi đến cái giường và xé tấm vải giường ra thành từng dải nhỏ. Dùng cái sống của một con dao, anh nhét từng dải vào từng khe hở của các cửa sổ và cánh cửa chính. Khi mọi chỗ đã được lèn chặt, anh tắt ngọn lửa, mở vòi ga hết mức, rồi lên nằm một cách thoải mái trên giường.

*

Đấy là đêm bà McCool cảm thấy thèm bia. Thế là bà đi lấy một lon đến ngồi bên bà Purdy, tại một góc cô tịch dưới tầng hầm nơi các bà chủ nhà tụ họp và nơi con sâu tham lam ít khi chết đói. Bà Purdy nói, qua một vòng tròn bọt bia li ti:

- Tối nay tôi đã cho thuê được căn phòng trên tầng ba. Một anh thanh niên đến thuê. Anh ta đi ngủ cách đây hai giờ rồi.

Bà McCool nói với lòng thán phục:

- Thật à, bà Purdy? Bà tài lắm mới có thể cho thuê loại phòng như thế.

Và McCool thì thầm, đầy vẻ bí ẩn, thêm câu hỏi:

- Thế thì bà có nói cho anh ta biết không?

Bà Purdy nói, cổ họng càng như được lót thêm lông thú dày nhất:

- Có phòng là phải trang bị để cho thuê. Tôi không nói cho anh ấy biết bà McCool ạ.

- Bà nói đúng lắm, có cho thuê phòng thì những người như chúng ta mới sống được. Bà có đầu óc kinh doanh độc đáo lắm. Nhiều người có thể từ chối căn phòng đó nếu họ biết là đã có khách tự tử và nằm chết trên cái giường trong đấy.

- Như bà nói, chúng ta phải lo kiếm sống.

- Thật vậy bà ạ. Đúng một tuần trước tôi đã giúp bà trải lại tấm lót sàn. Một cô gái xinh xắn mảnh dẻ tự tử bằng ga thắp đèn - cái cô có khuôn mặt nhỏ nhắn đấy, bà Purdy.

Bà Purdy đồng tình nói nhưng pha chê bai:

- Cô ấy có thể được xem là đẹp, như bà nói, nếu không có cái bớt trên lông mày bên trái. Dùng thêm bia đi, bà McCool.
keokimcuong is offline  

Old 06-03-2006, 22:07  

Manager
 
Join Date: 14-09-2005
Posts: 570
KL$ (TOP! 8): 8.632
Awarded 34 time(s)
Sent 54 thank(s)
Received 33 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A6 (2005-2008)
Location: My house

<div align=center>Sự lãng mạn của một người môi giới bận rộn</div>
<div align=right>O. Henry</div>


Pitcher đã làm việc cho Harvey Maxwell, một nhà môi giới chứng khoáng được nhiều năm. Pitcher là người khá điềm tĩnh. Ông ít khi để lộ ra những cảm xúc riêng tư. Nhưng sáng hôm nay, trông ông rất ngạc nhiên - pha lẫn sự thích thú. Bởi mọi hôm, Harvey Maxwell thường phấn khởi đến văn phòng lúc 9 giờ 30. Nhưng sáng nay, cô thư ký trẻ lại đến văn phòng cùng với anh. Pitcher thích thú quan sát họ. Harvey Maxwell không để ý đến Pitcher. Anh ta chỉ chào nhanh rồi nhào vào bàn làm việc, chúi đầu vào túi hồ sơ và điện tín đang chờ phúc đáp.

Cô thư ký trẻ đã làm việc cho anh được một năm. Cô ấy rất đẹp và ăn mặc đơn giản. Cô không bao giờ đeo kính như những thư ký khác hay chỉ để xem nó như một thứ nữ trang rẻ tiền. Có chỉ mặc bộ đầm xám giản dị, nhưng nó rất vừa vặn với vóc dáng của cô. Để hợp với bộ đồ, cô đội một chiếc nón nhỏ màu đen đính một bông hoa vàng lục bên góc. Sáng hôm nay, khuôn mặt cô sáng lên hạnh phúc, đôi mắt long lanh và đôi má khẽ ửng hồng.

Pitcher cảm thấy hết sức thú vị, nhận thấy sáng hôm nay cô gái trẻ có vẻ gì đó khác ngày thường. Cô không đi thẳng vào phòng làm việc như thường lệ mà lại đứng bên ngoài, tới lui gần bàn làm việc của Maxwell. Maxwell thì không phải là con nguời bình thường. Từ lúc anh bước vào thế giới chứng khoáng phức tạp ở New York, anh dường như đã biến thành một cỗ máy làm việc quần quật.

- Chà, có việc gì sao? Hay có gì sai sót?

Maxwell hỏi cô thư ký. Anh thậm chí không ngẩng đầu lên, chúi mũi vào mớ điện tín. Thư từ và hồ sơ thì rải đầy bàn như tuyết.

- Không có gì cả.

Cô thư ký nhẹ nhàng đáp. Cô quay đi với nụ cười mỉm.

- Ông Pitcher - Cô hỏi - Hôm qua anh Maxwell đã dặn ông mướn một thư ký khác phải không?

Pitcher trả lời:

- Đúng vậy. Cậu ấy bảo tôi mướn một người khác. Tôi đã gọi cho trường đào tạo thư ký rồi và họ bảo sẽ cho người khác đến thử việc vào sáng nay. Nhưng bây giờ đã 9 giờ 45 mà vẫn chưa có ai đến.

- Vậy tôi cứ làm việc như thường lệ nhé! - Cô gái trẻ nói - Cho đến khi có người khác thay thế.

Rồi cô đi về phòng làm việc, treo chiếc mũ lên giá như mọi khi

Harvey Maxwell là một nhà môi giới chứng khoáng bận rộn. nhưng hôm nay anh còn bận bịu hơn ngày thường. Máy điện tín không ngừng nhận tin, điện thoại bàn reo liên tục, mọi người thì đổ xô đến văn phòng, mua bán, la hét, náo loạn cả lên, nhân viên chạy tới lui, mang vào những bức điện báo.Ngay cả khuôn mặt của Pitcher cũng sống động hẳn lên, Maxwell thì xô bật cả ghế dựa vào tường, nhanh nhẹn phóng tới máy điện thoại rồi tới máy điện tín, lanh lẹ như một vũ công thứ thiệt.

Giữa lúc rối tinh lên với mớ giấy tờ và tiếng la hét, nhà môi giới mới nhận thấy một người lạ vừa xuất hiện. Đầu tiên, anh ta chỉ thấy một búi tóc vàng rực dưới cái mũ rộng vành. Sau đó, anh ta nhận ra cái gọng kính trang trí trên khuôn mặt cô gái trẻ. Pitcher biết chắc là Maxwell không quen cô ta. Ông bèn bước đến giải thích:

- Đây là người do trường đào tạo thư ký gởi đến, thưa cậu, - ông nói - Cô ta tới để thử việc.

Maxwell ngừng tập trung vào mớ giấy tờ và điện tín.

- Công việc nào?

Anh ta la lên, có vẻ rất tức giận.

- Việc của một thư ký, thưa cậu.

Pitcher nói nhỏ.

- Hôm qua cậu đã dặn tôi gọi đến trường đào tạo thư ký và tôi đã bảo họ gởi đến một người vào sáng nay.

- Ông lú lẫn mất rồi, Pitcher ạ. Tại sao tôi lại bảo ông làm việc ấy chứ? Cô Leslie đã đảm dương rất xuất sắc công việc của mình trong suốt một năm qua. Cô ấy vẫn sẽ tiếp tục công việc của mình cho đến khi nào cô ấy muốn. Không có việc gì cho bà đâu, thưa quý bà! Và phiền ông gọi đến trường đào tạo, Pitcher. Bảo họ không cần gởi bất cứ ai đến đây nữa.

Cô gái quay mình bỏ đi. Nón của cô ta sượt vào mặt Pitcher khi cô nàng giận dữ bước thẳng qua ông để rời khỏi văn phòng. Còn Pitcher thì tự nhủ:

- Chao ôi! Hôm nay, cậu Maxwell hay quên hơn hẳn mọi ngày!

Văn phòng càng lúc càng đông đúc. Lệnh mua và bán thay đổi nhanh đến chóng mặt. Maxwell cũng đang lo lắng về những cổ phiếu của mình, anh càng làm việc hăng hái và nhanh nhẹn hơn. Vì đây là thị trường chứng khoáng, là thế giới của đồng tiền. Nơi không có chỗ dành cho những cảm xúc thông thường hay những thứ tự nhiên.

Đến gần giờ ăn trưa, mọi việc mới lắng xuống. Maxwell đứng bên bàn làm việc, tay cầm đầy những bức điện tín, cây bút thì mắc ở mang tai, tóc thì dựng đứng cả lên. Đột nhiên, một mùi hương nhẹ nhàng, mong manh như hơi thở mùa xuân, được gió thổi tới qua ô cửa sổ để ngỏ. Maxwell đứng sững lại. Đó là mùi hương của cô Leslie, của chính cô gái và là mùi hương của riêng cô. Mùi hương như đem cô đến bên cạnh anh. Thế giới chứng khoáng biến mất. Và cô Leslie thì ở ngay phòng bên cạnh - chỉ cách anh có hai mươi bước chân.

- Mình phải làm ngay thôi! - Maxwell khẽ nói - Mình phải hỏi cô ấy ngay bây giờ. Tại sao mình đã không làm sớm hơn chứ?

Anh chạy vào văn phòng của cô, lao thẳng đến bàn làm việc. Cô gái mỉm cười nhìn anh. Khuôn mặt khẽ ửng hồng. Mắt cô sáng long lanh.. Maxwell đặt tay lên bàn còn trải đầy giấy và hồ sơ. Anh nói, vội vàng:

- Leslie. Anh chỉ có một phút để nói thôi và anh muốn nhân lúc này để nói một điều rất quan trọng là... em có đồng ý lấy anh không? Anh không có thời gian để chứng tỏ với em, nhưnh anh thật sự yêu em. Nhưng em hãy mau trả lời anh đi nào. Điện thoại lại reo nữa kìa.

- Ơ... Tại sao... Anh đang nói gì thế?

Cô gái trẻ bật khóc. Cô đứng dậy và nhìn anh lạnh lùng.

- Em không hiểu sao?

Maxwell nói nhanh, ngoái nhìn cái điện thoại bàn đang đổ chuông liên tục. Anh la lên:

- Anh muốn em lấy anh. Anh đã tranh thủ lúc này để nói với em, lúc mà công việc đã tạm lắng xuống. Bắt điện thoại đi, Pitcher!

- Em đồng ý chứ?

Anh nhẹ nhàng hỏi.

Cô thư ký có những cử chỉ kỳ lạ. Đầu tiên cô có vẻ ngạc nhiên. Sau đó, cô bắt đầu khóc. Nhưng rồi cô lại mỉm cười dưới hàng nước mắt, như ánh mặt trời ló dạng sau cơn mưa. Cô choàng tay qua cổ nhà môi giới.

- Em biết rồi! - Cô nói - Tất cả cũng bởi công việc đã chiếm hết đầu óc anh đây. Lúc đầu, em đã rất sợ, nhưng anh không nhớ sao, Harvey? Chúng ta đã cưới nhau lúc 8 giờ tối hôm qua dưới nhà thờ nhỏ gần góc đường đó thôi!

**********************
GemLeaf is offline  

Old 07-03-2006, 02:13  

kBank Manager
 
Join Date: 24-04-2004
Posts: 2.502
KL$ (TOP! 28): 4.298
Awarded 58 time(s)
Sent 329 thank(s)
Received 236 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A3 (2003-2006)
Location: Where the 4-leaf-clover grows ^__*

Truyện "Món quà giáng sinh" em angry_bee post và truyện "Quà tặng của những nhà thông thái" của Gemleaf giống hệt nhau ^^



------------------------------
Nobody falls in love by choice, it is by chance.
Nobody stays in love by chance, it is by work : )
Midori is offline  

Old 07-03-2006, 09:35  

Manager
 
Join Date: 14-09-2005
Posts: 570
KL$ (TOP! 8): 8.632
Awarded 34 time(s)
Sent 54 thank(s)
Received 33 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A6 (2005-2008)
Location: My house

:"> em xin lỗi, post thế nhưng em chỉ mới đọc Tên Trộm Hoàn Lương với cả Sự lãng mạn của một nhà môi giới bận rộn . ^^
Nó dịch kiểu quái gì mà lại lệch nhau đên thế nhỉ :-s
Cái truyện "Quà tặng của những nhà thông thái" là em lấy từ dactrung.net
GemLeaf is offline  

Old 07-03-2006, 13:29  

Phá sản!
 
Join Date: 23-03-2003
Posts: 111
KL$: 0

Công nhận là đọc truyện ngắn của O.Henry đầy tính nhân văn.Độc giả sẽ luôn bị bất ngờ bởi những cái kết thú vị
10 CENT is offline  

Old 13-04-2006, 08:55  

Manager
 
Join Date: 14-09-2005
Posts: 570
KL$ (TOP! 8): 8.632
Awarded 34 time(s)
Sent 54 thank(s)
Received 33 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A6 (2005-2008)
Location: My house

Bên bị

Một người đàn ông tóc đỏ, râu không cạo, áo quần xốc xếch ngồi trên chiếc ghế xích đu cạnh cửa sổ. Anh ta vừa mới châm tẩu thuốc và đang nhả ra những đám mây xanh một cách khoái trá. Anh ta đã tháo giấy và đi một đôi dép rơm màu xanh đã bạc. Với sự thèm khát đã thành bệnh của một tay nghiện tin tức hàng ngày thực thụ, anh ta lóng ngóng gấp những trang của một tờ báo buổi chiều, háo hức nuốt những dòng tít to đậm, đen xì. Rồi sau đó mới đọc đến những chi tiết nhẹ nhàng hơn in bằng kiểu chữ nhỏ hơn, như ta chiêu nước sau một hớp rượu mạnh.
Ở phòng bên cạnh, một người đàn bà đang nấu bữa ăn tối. Mùi mỡ khét và mùi cà phê đang sôi vật lộn với những làn khói thuộc lá sợi của tẩu thuốc buổi tối.
Bên ngoài là một trong những đường phố đông đúc của khu Ixtơ Xai, ở đấy cứ chạng vạng tối là Quỷ vương đặt sở mộ quân. Một đám trẻ em rất đông nhảy nhót, chạy chơi trên đường phố. Có những đứa quần áo rách rưới, có những đứa ăn mặc đồ trắng sạch sẽ, đầu thắt giải băng, có những đứa hung hăng và hiếu đông như những con chim ưng non, có những đứa mặt mũi hiền lành và nhút nhát, có những đứa hét lên những lời lẽ thô bạo và tục tằn, những đứa khác lắng nghe để noi theo, sợ đấy nhưng rồi lại dạn ngay – đó là những trẻ em đang chơi trong hành lang của Ngôi nhà tội lỗi. Bên trên sân chơi luôn bay lượn một con chim lớn. Những nhà khôi hài gọi con chim đó là con chim sếu. Nhưng dân phố Crixti thông thạo về chim hơn, họ gọi đó là con diều hâu.
Một đứa bé gái 12 tuổi rụt rè đi tới chỗ người đàn ông đang đọc báo và nghỉ ngơi bên cửa sổ:
- Bố ơi ! Nếu bố không mệt quá thì bố chơi với con một ván cờ nhé?
Người đàn ông tóc đỏ, râu không cạo, áo quần xốc xếch, chân không xỏ giấy, ngồi bên cửa sổ , cau mặt lại trả lời:
- Cờ quạt gì! Ko, tao không chơi. Người ta đi làm quần quật suốt ngày về đến nhà cũng không được nghỉ ngơi một tí nữa à? Sao mày không ra ngoài vỉa hè mà chơi với bọn trẻ con khác?
Người đàn bà đang nấu bếp đi ra chỗ cửa:
- Anh Giôn, tôi không muốn để con Lidi chơi ngoài phố.Chúng nó học ở đó lắm điều không tốt đâu. Nó đã ở nhà suốt cả ngày rồi. Kể ra về nhà cũng nên bỏ ra một chút thì giớ mà chơi với con nó chứ?
- Nó muốn vui đùa thì cứ cho nó ra ngoài ấy chơi với lũ trẻ - người đàn ông tóc đỏ, râu không cạo, áo quần xốc xếch nói. – và đừng có quấy rầy tôi nữa.


----------------------------------------
- Chúng mày có đồng ý không? Kit Mơlali nói – Tao cược năm mươi đôla ăn hai mươi lăm là tao sẽ đưa con Anni đi nhảy đấy. Đặt tiền ra.
Cặp mắt đen láy của thằng Kit rực lên ánh lửa của kẻ bị khích và thách thức. Nó rút “cuộn tiền” của nó ra và đập năm tờ mười đôla lên mặt tiền quầy rượu. Ba bốn gã thanh niên bị “lôi kéo”, bỏ tiền cuộc ra chậm chạp hơn. Người bán rượu ở quầy, nguyên là một tai gá cuộc, cầm lấy tiền, cẩn thận gói lại, ghi số tiền cuộc bằng một mẩu bút chì chừng một đốt tay rồi nhét cái gói vào một góc cuốn sổ quỹ.
- Ồ, được cả chỗ này thì tiêu gì cho hết, - một gã tham gia đánh cuộc nói, chưa chi đã khấp khởi khoái trí.
- Đấy là việc của tao – Thằng Kit sẵn giọng – Này Maicơ, rót đầy cốc cho tất cả đi.
Sau tuần rượu, thằng Bơcơ, tay che tàn, điếu đóm, bạn thân quân sư và quan đại thần của thằng Kit, bảo nó ra ngoài chỗ quấy đánh giầy ở góc phòng khách, nơi giải quyết mọi vấn đề của “Câu lạc bộ xã hội đêm khuya”. Trong khi Tôni, lần htứ năm trong ngày hôm ấy, đánh bóng lộn đôi giày da sáng màu của Chủ tịch và Thư ký câu lạc bộ, thì Bơcơ nói chó “sếp” của nó nghe điều hơn lẽ thiệt:
- Cắt đứt với con bé tóc vàng ấy đi, Kit – nó khuyên thế - không thì phiền đấy. Cậu định bỏ rơi con bé của cậu để làm gì? Cậu sẽ chẳng tìm thấy con nào “mết” cậu hơn con Li đâu. Nó bằng hàng trăm con Anni đấy.
- - Tao mê gì con Anni – thằng Kit nói, và gạt tàn thuốc lá lên chiếc giầy đã đánh bóng của nó, rồi quệt giầy luôn lên và Tôni – Nhưng tao muốn cho con Li một bài học. Nó đi khoe ầm lên rằng tao không dám nói chuyện với một đứa con gái nào khác. Kể ra thì con Li được lắm về những mặt nào đó. Nhưng gần đây nó uống rượu hơi nhiều. Lại nói năng những câu mà con gái nhà tử tế không nên nói.
- Các cậu đã đính hôn với nhau rồi phải không? Bơcơ hỏi.
- Tất nhiên, có thể sang năm là cưới thôi.
- Tớ thấy chính cậu đã cho nó uống cốc bia đầu tiên đấy. Cách đây đã hai năm, hồi nó vẫn đi đầu trần xuống góc phố Crixti để gặp cậu sau bữa ăn tối. Dạo ấy nó còn là một con bé hiền lành, cứ động nói là đỏ mặt.
- Giờ thì đôi khi nó cũng nổi tam bành lên đấy – Kit nói – Tao chúa gét cái thói ghen tuông. Vì thế tao mới định đi nhảy với con Anni. Cỏ thế nó mới mở to mắt ra.
- Thế thì cậu cũng nên dè chừng một chút – Bơcơ nói thêm một lần chót, - Nếu con Li là người yêu của tớ và nếu tớ định lẻn đi nhảy với một con Anni nào đó thì tớ phải mặc áo giáp sắt bên trong bộ cánh của tớ mới được.
-------------------------------------------
Lidi lang thang qua địa phận của con sếu – diều hâu. Đôi mắt đen của cô ngó nhìn đám người qua lại một cách giận dữ nhưng lơ đãng. Thỉnh thoảng cô lại khe khẽ hát lên vài đoạn những điệu hát nhỏ ngộ nghĩnh. Giữa hai đoạn hát, cô cắn chặt hai hàm răng trắng nhỏ, nói nxlời thô bạo mà khi Ixtơ Xai đã bổ sung cho ngôn ngữ của cô.
Váy của Lidi bằng lụa màu xanh lá cây. Áo cô may bằng một thứ hàng len kẻ ô to màu nâu hồng, vừa khít người và không phải là không có dáng. Cô đeo một chiếc nhẫn nạm một cụm hạt hồng ngọc to giả và một quả tim lồng ảnh lủng lẳng ở cuối một sợi dây chuyền bằng bạc, đập vào đầu gối cô. Giày cô bẹp dí trên đôi gót cao vẹo vọ, chưa biết mùi xi làgì. Mũ cô đút vào một thùng bột chưa chắc đã lọt.
“Cửa vào gia đình” của tiệm “Chim tước xnh” tiếp đón cô. Cô ngồi vào một bàn, bấm nút chuông với một điệu bộ một phu nhân rung chuông gọi xa. Người hầu bàn đi tới, cằm bạnh, giọng nói nhẹ nhàng, tỏ vẻ thân mật nhưng kính trọng. Lidi uốn ** vuốt lại tà váy lụa, có vẻ hài lòng.Cô tận dụng lợi thế của mình. Ở đây cô có quyền ra lệnh và có quyền được hầu hạ. Đó là tất cả những gì mà thế giới của cô đã dành cho cô với tính cách đặc quyền của phụ nữ.
- Tommi, cho Uytxki – cô nói, kiểu cách y như các chị em của cô ở khu phố trên nhỏ nhẻ : Giêm, cho sâm banh.
- Có nga, thưa cô Lidi. Cô uống kèm với gì?
- Nước Xenzơ. Mà này, Tommi, hôm nay Kit có quanh quẩn đây không?
- A không, cô Lidi ạ. Hôm nay tôi không thấy anh ấy.
Một điều “cô Lidi” hai điều “cô Lidi” vì thằng Kit có tiềng là đòi hỏi mọi người phải triệt để tôn trọng tư cách người vợ chưa cưới của nó.
- Tôi đang đi tìm nó đây – Lidi nói, sau khi nước Xenzơ đã được xịt vào cốc ngay dưới mũi cô. Tôi nghe nói nóbảo nó sẽ đưa con Anni Caxơn đi nhảy. Cứ để cho nó làm ! Đồ chuột bạch mắt đỏ! Tôi đang đi tìm nó đây. Tommi! Anh cũng biết tôi đấy. Tôi và Kit đã hứa hôn với nhau 2 năm nay rồi. Hãy nhìn cái nhẫn này. Nó bảo giá năm trăm đấy. Cứ để nó đưa con ấy đi nhảy. Tôi sẽ làm gì ấy à? Tôi sẽ moi tim nó ra. Một Uytxki nữa, Tommi!
- Ở địa vị cố, tôi sẽ chẳng nghe những lời đồn đại ấy làm gì, cô Lidi ạ - anh hầu bàn ngọt ngào nói qua cáilỗ hẹp bên trên cằm hắn – Kít Madơli không phải là con người vỏ rơi một cô gái như cô đâu. Kèm thêm nước Xenzơ nữa chứ cô Lidi?
- Hai năm – Lidi nhắc lại, hơi dịu đi đôi chút nhờ nghệ thuật kỳ diệu của người nấy rượu – Chiều chiều tôi vẫn thường chơi ở ngoài phố vì ở nhà chẳng biết làm gì. Một thời gian dài tôi chỉ ngồi trên bậc cửa nhìn các ngọn đèn và người qua lại. Thế rồi một buổi chiều thằng Kit đến, đánh giá tôi và thế là tôi mê tít nó ngay lập tức. Cốc rượu đầu tiên nó cho tôi uống làm tôi về nhà khóc suốt đêm và bị một trận đòn vì tội làm ầm cả nhà. Thế mà bây giờ … này, Tommi, anh đã trông thấy cái con Anni ấy bao giờ chưa? Nếu không có thuốc nhuộm tóc thì nó đã ra rìa từ lâu rồi. Ồ, tôi đang đi tìm nó. Thằng Kit có đến, anh bảo nó thế. Tôi ấy à? Tôi sẽ moi tim nó ra. Cứ để đấy cho tôi. Một Uytxki nữa, Tommi.
Lidi đi ngược đường phố, hơi chuếnh choáng nhưng cặp mắt vẫn chăm chú và long lanh. Một em bé gái tóc quăn đang ngồi trên thềm một ngôi nhà gạch, lúng túng với một sợi dây rối tung. Lidi ngồi thụp xuống bên cạnh em bé, một nụ cười méo xệch thoáng trên khuôn mặt đỏ bừng. Nhưng mắt cô bỗng trong sáng và hồn nhiên hẳn lên.
- Để chị dạy em làm một cái ổ cho mèo nằm nhé, - cô vừa nói vừa cài chiếc váy lụa xanh vào dưới đôi giày cũ.
Và trong khi Lidi và em bé ngồi đấy thì ở phòng lớn của “câu lạc bộ xã hội đêm khuya” đèn khiêu vũ đã bật lên. Đây là buổi vũ hội thường kỳ một tháng hai lần, một dịp khoe các bộ quần áo mà các hội viên rất hãnh diện, và họ ra sức hò hét bằng cái giọng khàn khàn cho thêm phần rôm rả.
Đến chín giờ tối, vị chủ tịch Kit Mơlali bước ra sàn nhảy, tay khoác một cô gái, tóc cũng vàng óng như tóc nàng Lorili (Theo truyền thuyết, nàng tiên dưới nước hay quyến rũ các tàu biển cho đụng vào đá ngầm). Tiếng “Vâng” của cô êm dịu biến thành tiếng “dạ”, nhưng cái ý đồng tình thì rất rõ ngay cả đối với những cái tai Ái Nhĩ Lan chính cống. Cô giẫm phải đuôi áo của mình và đỏ mặt… và mỉm cười nhìn vào mắt Kít.
Thế rồi, trong khi hai người đang đứng giữa sàn đánh xi bóng lộn, thì xảy ra cái việc mà để ngăn chặn nó, biết bao nhiêu ngọn đèn đã đêm đêm thắp sáng trong các văn phòng và các thư viện.
Định mệnh mặc váy lụa xanh, mang cái tên chiến đấu là “Lidi” đã từ vòng người đứng xem nhảy vọt ra. Mắt cô nhìn trừng trừng và đèn hơn hạt tuyền. Cô không la hét cũng không hề do dự. Hoàn toàn chẳng giống phụ nữ tí nào, cô văng ra một tiếng chửi thề - tiếng chửi thề Kit hay dùng – với cái giọng trầm của riêng hắn, rồi trong lúc “Câu lạc bộ xã hội đêm khuya” nháo nhác chạy tán loạn, cô đã thực hiện đúng lời khoe với gã hầu bàn Tommi – thực hiên theo như chiều dài của lưỡi dao và sức mạnh của cánh tay cô cho phép.
Rồi ngay sau đó, bản năng tự bảo toàn sâu xa tác động – hay đấy là bản năng tự hủy diệt, cái bản năng mà xã hội ghép vào cái bản năng tự nhiên kia? – khiến Li bỏ chạy ra ngoài phố. Cô nhanh như một con dẽ gà bay qua mộy khu rừng cây non vào một buổi hoàng hôn.
Tiếp theo sau là sự sỉ nhục lớn nhất của cái thành phố lớn này, sự đồi bại lâu đời nhất, thối nát nhất của nó còn rơi rớt lại, sự ô uế xấu xa, sự thối tha đồi trụy của nó, được nuôi dưỡng dung túng và nuôn chiều, được truyền lại từ một thế kỷ xa xưa của một xã hội dã man hạ tiện nhất – đó là những tiếng la ó. Nó không còn sống sót ở đâu khác ngoài các thành phố lớn, và ở đây hơn bất cứ nơi nào khác, nơi mà văn hóa, quyền công dân và cái tính tự cho mình là cao quý hơn, được phát triển đến trạng thái hoàn chỉnh cùng cực, nó cùng gào thét tham gia vào cuộc săn đuổi.
Một đám đông hò hét đuổi theo gồm những ông bố, bà mẹ, những cặp tình nhân, những cô gái – quát tháo, la lối, kêu gào, huýt sáo, đòi nợ máu. Rất có thể có con sói của thành phố lớn đó đang đứng ngoài cửa. Rất có thể trái tim nó, còn hiền từ hơn, sẽ nao núng trước cuộc vây bắt.
Lidi vốn thông thạo đường ngang ngõ tắt, và khao khát được giải thoát, cô lao xuống những con đường quent huộc và cuối cùng chân cô dẫm lên mặt bến tàu xám xịt đã mục nát. Rồi chỉ hổn hển thêm vài bước nữa là bà mẹ hiền sông Ixtơđã ôm Lidi vào lòng, vỗ về cô trong bùn, nhanh chóng xoa dịu nỗi khổ của cô, chỉ trong vòng năm phút đã giải quyết xong các vấn đề đã làm cho các ngọn đèn phải thắp sáng thâu đêm trong hàng ngàn tu viện và học viện.
Đôi khi người ta có những giấc mơ rất nực cười. Nhà thơ gọi đó là ảo mộng nhưng ảo mộng chỉ là một giấc mơ đặt thành thơ không vần mà thôi. Tôi đã mơ thấy đoạn cuối của câu chuyện này.
Tôi thấy mình như đang ở thế giới bên kia. Ko hiểu làm sao tôi lại đến đây, có lẽ tôi đã đi xe điện trên cao ở đại lộ thứ chín hoặc đã uống thứ thuốc có chứng chỉ độc quyền chế tạo hoặc đã véo mũi Jim Jephri (tên một tướng cướp hung hãn thời bấy giờ) hoặc đã làm một trò gì đó dại dột đại loại như vậy. Nhưng dù thế nào đi nữa thì tôi cũng đã ở đấy, và chúng tôi túm tụm thành một đám đông bên ngoài tòa án; bên trong tòa đang xét xử . Chốc chốc lại có một thiên thần nhân viên tòa án, đẹp đẽ và oai vệ, đi ra ngoài cửa gọi một vụ khác.
Tôi còn đang suy nghĩ đến những tội lỗi của mình ở hạ giới và đang tự hỏi xem có cần phải chứng minh là tôi không có mặt ở nơi xảy ra sự việc bằng cách nói rằng là tôi sống ở Niu – Giơdi không, thì thiên thần mõ tòa đã ra cửa, ê a gọi:
- Vụ án số 99.852.743.
Một gã mật thám mặc thường phục bước lên - ở đây có nhiều gã như thế, ăn mặc y hệt như cố đạo và cũng xô đẩy các linh hồn chúng tôi y như cảnh sát dưới trần – và gã đang cầm tay lôi ai, bạn có biết không? Chính là Lidi.
Nhân viên tòa án đưa co ta vào trong phòng rồi đóng cửa lại. Tôi lại chỗ ông Cớm Bay để hỏi thăm về vụ ấy.
- Một vụ rất đáng buồn, - hắn vừa nói vừa chụm các đầu ngón tay đã cắt sửa vào với nhau. Một con bé không tài nào dạy bảo được. Tôi là đức cha Giôn, nhân viên đặc biệt của trần gian. Tôi được giao trách nhiệm lo vụ này. Con bé ấy đã giết người chồng chưa cưới của nó rồi tự tử. Nó không có luật sư bào chữa. Trong bản báo cáo đệ trình lên tòa tôi đã kể chi tiết mọi viêc, tất cả đều dựa vào những nhân chứng đáng tin cậy. Tử hình là cái giá phải trả cho tội lỗi, sáng danh Chúa!
Nhân viên tóa án mở cửa, bước ra ngoài.
- Tội nghiệp con bé, - đức cha Giôn, nhân viên đặc biệt của trần gian nói, một giọt lệ long lanh trong khóe mắt. – Đây là một trong những vụ bi thảm nhất xưa nay tôi từng thấy. Tất nhiên là con bé …
- Được tha bổn, - vị nhân viên toà án nói – Lại đây, Giônxi (Tên thân mật của Giôn). Trước hết anh nên biết rằng anh sẽ bị điều sang đội làm bánh nướng. Hay là anh muốn được đưa vào lực lượng truyền giáo ở Quần đảo Nam Hải, hả? Từ nay thì chừa cái thói bắt bớ hão ấy đi nếu không anh sẽ bị chuyển ngành, rõ chưa? Bên bị mà anh phải tìm trong vụ này là một gã đàn ông tóc đỏ, râu không cạo, quần áo xốc xếch chân đi đất ngồi bên cửa sổ đọc báo, để mặc con gái gã chơi ngoài phố. Tiến hành gấp lên.
Này, thế có phải là một giấc mơ dớ dẩn không nhỉ?
GemLeaf is offline  

Old 13-04-2006, 11:25  

kBank Manager
 
Join Date: 24-04-2004
Posts: 2.502
KL$ (TOP! 28): 4.298
Awarded 58 time(s)
Sent 329 thank(s)
Received 236 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A3 (2003-2006)
Location: Where the 4-leaf-clover grows ^__*

Sis ko hiểu truyện này lắm :-s Đó là một giấc mơ hay là truyện thực
@Gem: Lâu rồi sis ko gặp em



------------------------------
Nobody falls in love by choice, it is by chance.
Nobody stays in love by chance, it is by work : )
Midori is offline  

Old 17-04-2006, 19:27  

Phá sản!
 
Join Date: 15-03-2006
Posts: 122
KL$: 0

Truyện ngắn của O.HENRY hay thật đó tràn đầy tình nhân văn.Mình đọc đi đọc lại mà không thấy chán nhất là CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG
Nhưng cai chuyện CĂN PHÒNG ĐÃ CÓ SẴN ĐỒ CHO THUÊ đọc cứ thấy rờn rợn thế nào ấy.Chàng trai thuê đúng căn phòng mà người bạn gái anh đang tìm đã tự tử
kamikazer is offline  

Old 19-04-2006, 23:44  

Manager
 
Join Date: 14-09-2005
Posts: 570
KL$ (TOP! 8): 8.632
Awarded 34 time(s)
Sent 54 thank(s)
Received 33 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A6 (2005-2008)
Location: My house

hixxhix
Mang. nha` em hong? nen ko ol dc sis ui dau buon` qua'

Cai truyen. "Ben bi.", ket thuc la luc Lidi nhay xuoong song me quen het uu phien` roi`, con` phien toa` xu*? phan` sau la` giac mo cua tac gia thoi ma` sis em thich cach viet nay cua? O'Henry lam' ^^

Em type xong them dc 1 truyen nua rui` (:"> type cham. vi` luoi` :">) nhung ko co thoi gian ra hang` de pozt, o nha` thi` mang. out lien tuc., ko pozt kip. sis chiu kho doi 1,2 tuan` nua~ vay. :p
GemLeaf is offline  

Old 19-05-2006, 16:27  

Manager
 
Join Date: 14-09-2005
Posts: 570
KL$ (TOP! 8): 8.632
Awarded 34 time(s)
Sent 54 thank(s)
Received 33 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A6 (2005-2008)
Location: My house

Những truyện được ưa thích:
After twenty years (Sau hai mươi năm): Một trong những truyện lấy bối cảnh Thành phố New York (nơi O. Henry sống tám năm cuối đời ông) được ưa thích nhất.
A chaparral prince (Hoàng tử đồng xanh): Chuyện phiêu lưu vùng Viễn Tây thời ấy, vừa hoang sơ, ngang tàng, mà cũng có khí phách anh hùng - pha trộn tai ương và phúc lành, lục lâm và hiệp sĩ.
The church with an overshot-wheel (Ngôi giáo đường với cối xay nước): Có người nhận xét "giống như truyện cổ tích". Cốt chuyện dễ thương, và là một trong số ít truyện của O. Henry thể hiện văn tài tả cảnh tuyệt vời.
The furnished room (Căn phòng đủ tiện nghi): Truyện được những nhà phê bình nghiêm khắc xem là một trong những truyện nghiêm túc, có giá trị văn học nhất của O. Henry.
Georgia's Ruling (Phán quyết của Georgia): Cả trăm năm trước, nước Mỹ rộng bao la vẫn có cơn "sốt đất" tạo ra nhiều vấn đề cho các sở địa chính, nhưng ở đây nằm trong bối cảnh khác: tình cha con mở rộng ra tình người. Ý tình thắm thiết nhưng ngôn từ cô đọng.
The gift of the Magi (Món quà của các nhà thông thái): Một trong các truyện của O. Henry được người đọc phương Tây yêu thích nhất, cũng có thể được xem là một trong những truyện ngắn về Giáng Sinh hay nhất mọi thời đại.
The green door (Cánh cửa mầu lục): Có ý kiến cho rằng tác giả thiên về tư cách nhà hoạt động xã hội (social activist) qua truyện này.
The last leaf (Chiếc lá cuối cùng): Truyện của O. Henry được biết đến nhiều nhất, đã được đưa vào sách giáo khoa của nhiều nước để giới thiệu văn học nước ngoài.
A retrieved reformation (Một cuộc đổi đời): Truyện rút tư liệu từ thời gian O. Henry ngồi tù, có ý kiến cho là dựa trên chuyện có thật.
The dream (Giấc mộng): Đây là truyện cuối cùng của O. Henry. Tạp chí văn chương Cosmopolitan Magazine đã đặt hàng tác giả viết truyện này, nhưng sau khi nhà văn qua đời (tháng 6 năm 1910), tập bản thảo dang dở được tìm thấy trên bàn làm việc đầy bụi bặm của nhà văn. Truyện ngắn dang dở được ra mắt trên tờ Cosmopolitan Magazine tháng 9 năm 1910.

*****************************
Lang thang trên net mới lượm được cái này ^^
GemLeaf is offline  

Old 19-05-2006, 16:29  

Manager
 
Join Date: 14-09-2005
Posts: 570
KL$ (TOP! 8): 8.632
Awarded 34 time(s)
Sent 54 thank(s)
Received 33 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A6 (2005-2008)
Location: My house

CÁNH CỬA MÀU LỤC

Giả sử bạn đang đi dọc theo Phố Broadway sau bữa ăn tối, với mười phút để thưởng thức điếu xì-gà trong khi bạn đang phân vân giữa việc cứu nguy một thảm trạng và làm một việc gì đấy nghiêm túc theo cách trong các vở hài kịch nhố nhăng. Thình lình có một bàn tay đặt lên vai bạn. Bạn quay lại để nhìn vào đôi mắt mê hồn của một phụ nữ xinh đẹp tuyệt trần với những kim cương và lông chồn Nga. Người phụ nữ vội dúi vào tay bạn một cái bánh bơ thật nóng, rút ra một cái kéo nhỏ xíu, cắt đi cái nút thứ hai trên áo choàng của bạn, thốt lên “Hình bình hành!”, rồi chạy băng qua đường, ngoái đầu lại một cách kinh hãi.

Đấy là cả một sự phiêu lưu. Liệu bạn có chấp nhận không? Chắc là không. Bạn hẳn sẽ ngượng chín cả người, ném ngay mẩu bánh xuống và tiếp tục đi trên Phố Broadway, lần dò tìm cái nút áo bị mất. Bạn sẽ phản ứng như thế, trừ phi bạn thuộc số ít người không hề thấy mệt mỏi trong việc theo đuổi tinh thần phiêu lưu.
Con người phiêu lưu đích thực không bao giờ có nhiều. Mấy người phiêu lưu được kể trong sách truyện phần lớn là dân thương mại với những phương pháp mới được khám phá. Họ theo đuổi những gì họ thèm muốn - những bộ lông thú bằng vàng, những cốc chén linh thiêng, những người yêu quí phái, kho báu, vương miện và tiếng tăm. Con người phiêu lưu đích thực đi không có mục đích, không tính toán, để sẵn sàng gặp gỡ và chào đón một định mệnh vô hình nào đấy.
Con người phiêu lưu nữa vời – can đảm và hào nhoáng – thì có nhiều. Từ những cuộc Viễn chinh Thập tự (1) đến Palisades (2), họ đều làm giầu nghệ thuật về lịch sử và tiểu thuyết cũng như làm giầu cho việc buôn bán tiểu thuyết lịch sử. Nhưng mỗI người trong bọn họ điều theo đuổi một giải thưởng, nhắm vào một cái đích, vung một cái rìu, chạy một cuộc đua, khắc một cái tên – vì thế mà họ không phải là những người đích thực theo đuổi phiêu lưu.

Rudolf Steiner là một người phiêu lưu đích thực. Có rất nhiều buổi tối anh đi ra ngoài để kiếm tìm những gì bất ngờ và thần kỳ. Đối với anh, điều lý thú nhất trong cuộc sống là cái gì đấy đang chờ đợi anh ở ngã rẽ trước mặt. Đôi lúc cái tật sẵn sàng thách thức định mệnh đã lôi anh vào những tình huống quái dị. Hai lần anh đã phải ngủ đêm tại bót cảnh sát; hết lần này đến lần khác anh là nạn nhân của bọn lừa đảo thần tình và đâm thuê chém mướn; có lúc anh bị mất đồng hồ và tiền bạc chỉ vì một vụ phỉnh phờ. Nhưng với tính hăng say không hề suy giảm, anh vẫn chấp nhận kéo dài thêm bảng thành tích phiêu lưu rôm rả của mình.

Một buổi tối, Rudolf tản bộ dọc theo hè đường trong một khu phố cổ của thành phố. Hai dòng người chật ních hai bên hè phố, một dòng hối hả trở về nhà sau công việc, dòng kia ra khỏi nhà để đi ăn uống trong những nhà hàng sáng trưng như thể được thắp bằng cả nghìn ngọn nến. Anh thanh niên thích phiêu lưu trẻ trung đang ngập tràn vui thú, bước đi với dáng vẻ thâm trầm, ngắm nhìn cùng khắp. Ban ngày, anh là nhân viên tiếp thị cho một cửa hiệu bán đàn dương cầm. Khi anh đang đi, những âm thanh giống như là do hai hàm răng đánh lập cập phát ra từ một khung kính khiến anh chú ý (với một ngần ngại) quan sát một nhà hàng phía trước mặt, nhưng rồi khi nhìn kỹ lại anh thấy bảng hiệu đèn điện của một phòng nha khoa đặt ở trên cao kế đấy. Một anh chàng da đen khổng lồ, ăn mặc kỳ quái với một áo choàng vải móc mầu đỏ, cái quần mầu vàng và một cái mũ cát két kiểu quân đội, đang kín đáo phân phối những tấm thiệp cho người đi đường nào muốn nhận lấy.

Rudolf đã quá quen với cánh tiếp thị nha khoa kiểu này. Bình thường anh không muốn nhận một tấm thiệp tiếp thị nào cả. Nhưng lần này anh chàng da đen gốc Phi Châu dúi tấm thiệp vào tay anh một cách khéo léo đến nỗi Rudolf phải nhận mà mỉm cười khen cho cái tay kỹ xảo.

Khi Rudolf đi được vài bước, anh lơ đãng liếc nhìn tấm thiệp. Anh ngạc nhiên, lật tấm thiệp qua lại, rồi nhìn lần nữa với cả sự chú tâm. Một mặt của tấm thiệp hoàn toàn trống, mặt kia chỉ vỏn vẹn các chữ viết tay bằng bút mực: “Cánh Cửa Mầu Lục”. Và rồi Rudolf trông thấy, chỉ cách anh vài bước phía trước, một người đàn ông ném một tấm thiệp xuống đất. Rudolf nhặt lên. Đấy là một tấm thiệp in tên và địa chỉ một nha sĩ, liệt kê mọi dịch vụ trám răng, bịt răng, chỉnh răng vẩu, vân vân, và những hứa hẹn đặc biệt về kỹ thuật “không đau”.

Anh nhân viên tiếp thị với tính thích phiêu lưu dừng bước tại một góc phố và suy ngẫm. Rồi anh băng qua bên kia đường, đi ngược trở lại một dãy phố, băng trở lại bên này đường, và nhập vào dòng người lũ lượt. Giả vờ không hề để ý đến anh chàng da đen, anh ra vẻ lơ đãng nhận tấm thiệp trao cho mình. Cách mười bước, anh kiểm tra tấm thiệp. Vẫn cũng là những chữ viết tay bằng bút mực y như tấm thiệp đầu tiên: “Cánh Cửa Mầu Lục”. Có ba, bốn tấm thiệp được vứt trên đường từ từ những người đi trước và sau anh. Mấy tấm thiệp này đều đưa mặt trống lên trên. Anh nhặt hết lên, lật qua để xem. Tất cả đều mang dòng chữ in quảng cáo cho ông nha sĩ. Ít khi nào thần Phiêu Lưu phải kêu gọi Rudolf Steiner - một tín đồ trung thành - đến hai lần.. Nhưng hôm nay thì đúng là hai lần. Thế là cuộc phiêu lưu bắt đầu.

Rudolf bước chầm chậm trở lại chỗ anh chàng da đen đang đứng gần, hai hàm răng đánh lập cập. Lần này, khi anh đi qua, anh không nhận được một tấm thiệp nào nữa. Dù với bộ trang phục quái đản, anh da đen vẫn ra dáng vẻ tôn quý man rợ theo thiên nhiên, chìa tấm thiệp cho vài người, cho phép vài người khác đi qua mà không hề phiền nhiễu đến. Cứ mỗi nửa phút, anh lại cất tiếng khàn khàn hát những câu không ai hiểu nổi ý nghĩa theo cách ồm ộp của mấy lơ xe và giàn đồng ca hợp xướng. Không những anh ta không muốn trao tấm thiệp nào, nhưng đối với Rudolf cả tấm thân hộ pháp đen lù lù hình như lộ vẻ lạnh lùng, gần như đến mức khinh thường miệt thị. Cái nhìn làm nhà phiêu lưu đau nhói như là bị ong đốt. Anh nhận ra trong sự cáo buộc im lặng có lời kêu gọi đến anh. Dù gì những chữ viết tay bí ẩn kia có ý nghĩa gì chăng nữa, người da đen đã hai lần chọn anh trong dòng người bát nháo để trao cho tấm thiệp ấy. Và bây giờ người da đen có vẻ như lên án anh thiếu tinh thần và chí khí để lao vào cuộc đánh đố.

Đứng ra ngoài dòng người bát nháo, anh trai trẻ dò xét một cách nhanh chóng tòa nhà mà anh cho là cuộc phiêu lưu của anh sẽ xảy ra trong đấy. Toà nhà cao năm tầng. Một nhà hàng chiếm lấy tầng hầm. Tầng trệt, giờ đã đóng cửa, xem chừng là hiệu bán mũ mãng hay hàng lông thú. Tầng thứ hai theo tấm biển chữ đèn điện cho biết, là phòng nha sĩ. Trên nữa là một dãy phố lố nhố những bảng hiệu viết bằng vài ngôn ngữ khác nhau – nơi cư ngụ của mấy thầy bói xem chỉ tay, thợ cắt may, nhạc sĩ, và bác sĩ. Cao thêm nữa, những vải màn cửa và mấy chai sữa tươi đặt trên bệ cửa sổ chỉ định khu vực gia cư.

Sau khi đã có kết luận cho cuộc điều tra của mình, Rudolf nhanh nhẹn bước lên các nấc thang xây bằng đá dẫn vào toà nhà. Anh tiếp tục bước lên một cầu thang trải thảm, và dừng lại khi đã lên đến trên cùng. Hai dòng khí đốt cháy leo lét soi đường hành lang dài, một ở xa bên phải, một gần hơn bên trái. Anh nhìn về phía ánh sáng gần hơn và thấy, trong vùng lập loè, một cánh cửa mầu lục. Anh ngần ngừ một lúc, và rồi anh dường như trông thấy cái nhếch môi cười khinh miệt của anh chàng Châu Phi với trò tung hứng mấy tấm thiệp. Thế là anh bước thẳng đến cánh cửa màu lục và đưa tay lên gõ.

Trong khi chờ đợi là khoảng thời gian đo lường nhịp thở hào hển của cuộc phiêu lưu đích thực. Có thể không có phiêu lưu gì cả sau cánh cửa mầu lục này! Có thể là dân cờ bạc đang sát phạt nhau; mấy tay anh chị đang giăng bẫy với bao trò ma mãnh; giai nhân đang độ yêu đương bất cần đời và thế là muốn tìm của lạ; mối hiểm nguy, cái chết, tình yêu, nổi thất vọng, trò cợt nhã - bất kỳ việc gì cũng có thể đáp lại tiếng gõ táo bạo.

Có tiếng sột soạt bên trong, rồi cánh cửa từ từ mở ra. Một người con gái tuổI chưa đến hai mươi đứng đấy, mặt xanh xao, chân rung lẩy bẩy. Cô buông tay khỏi nắm cửa, người đong đưa một cách yếu ớt, đưa một tay lần mò. Rudolf đỡ lấy cô gái, đặt cô lên một cái ghế bành đã nhạt mầu đặt dọc theo chân tường. Anh đóng cánh cửa lại và liếc nhìn một vòng quanh căn phòng mù mờ do một ngọn đèn khí đốt. Anh nhận thấy phòng có vẻ gọn ghẽ, nhưng trông rất nghèo nàn.
Cô gái nằm thiêm thiếp, như là bất tỉnh. Rudolf nhìn quanh phòng, hồi hộp đợi chờ một nòng súng chĩa vào mình. Phải lăn nạn nhân trên một cái thùng phuy – không, không, đấy là để cứu nạn nhan khỏi bị chết đuối. Anh lấy cái mũ của mình quạt cho cô gái. Anh thành công, vì anh lỡ đập vành mũ vào sống mũi của cô, và cô mở mắt ra. Và rồi người trai trẻ nhận thấy khuôn mặt cô chính là phần còn thiếu sót trong số các chân dung thân cận trong trái tim anh. Đôi mắt xám, chân chất, sống mũi nho nhỏ, cong ra ngoài một cách hồn nhiên; mái tóc nâu, những sợi cong xoắn như các râu ria của một dây đậu -- tất cả dường như là sự kết thúc đúng cách và là phần thưởng cho mọi chuyến phiêu lưu tuyệt vời của anh. Nhưng khuôn mặt thì gầy gò và xanh xao.

Cô gái nhìn anh một cách từ tốn, rồi mỉm cười. Cô hỏi yếu ớt:

- Tôi đã ngất đi phải không? Ai lại không như thế? Ông thử nhịn đói trong ba ngày xem sao!

Rudolf thốt lên, đứng phắt dậy:

- Trời ơi! Cô chờ tôi trở lại.

Anh chạy vụt ra khỏi cánh cửa mầu lục, lao xuống mấy bậc cầu thang. Trong vòng hai mươi phút anh trở lại, dùng chân đá vào cánh cửa để cô gái ra mở. Cả hai tay anh ôm đầy mọi thứ mua từ cửa hiệu thực phẩm và nhà hàng. Anh đặt hết lên bàn – bánh mì và bơ, thịt nguội, bánh ngọt, bánh trái cây, đồ chua, sò biển, một con gà nướng, một chai sữa tươi, có cả trà.

Anh hào hển:

- Thật là điên rồ mà không ăn uống gì cả. Cô phải chấm dứt cái trò đánh cuộc về kết quả bầu cử ăn thua theo lốI tuyệt thực như thế này. Giờ thì bữa ăn tối đã sẵn sàng.

Anh dìu cô gái xuống chiếc ghế gần cái bàn và hỏi:

- Có cốc uống trà không?

- Trên cái kệ gần cửa sổ.

Khi anh quay lại với cái cốc, anh thấy cô đang bắt đầu nhai một quả dưa chuột muối khổng lồ mà cô rút ra từ mấy cái túi giấy với trực giác không nhầm lẫn của phụ nữ. Mắt cô rạng sáng. Anh dành lấy quả dưa chuột từ tay cô, cười lớn, và rót sữa vào đầy cốc. Anh ra lệnh:

- Cô uống thứ này trước, rồi cô có thể uống ít trà, rồi có thể ăn một cánh gà. Cô có thể ăn đồ chua ngày mai nếu cô thật khoẻ. Và bây giờ, nếu cô cho phép tôi là khách của cô, chúng ta sẽ cùng nhau ăn bữa tối.

Anh kéo một chiếc ghế khác. Cốc trà làm đôi mắt cô rạng rỡ hơn và mang lại ít hồng hào cho cô. Cô bắt đầu ăn ngấu nghiến như là một con thú rừng đã nhịn đói lâu ngày. Dường như cô xem sự hiện diện của người trai trẻ và việc anh giúp đỡ là điều tự nhiên. Không phải là cô xem nhẹ những quy ước; chỉ có điều là cơn ngặt nghèo đã cho phép cô bỏ qua mọi điều giả tạo cho con người. Nhưng dần dần, với sức lực được phục hồi, một ít quy ước cũng đến, và cô kể cho anh nghe hoàn cảnh của mình. Đấy là hoàn cảnh thường gặp như hàng nghìn trường hợp khác, thông thường đến nỗi thành phố phải ngáp dài khi chứng kiến – hoàn cảnh của một cô gái làm chân bán hàng nhận đồng lương tồi tệ, đồng lương càng bị hụt đi do những món tiền “phạt” để cửa hiệu có thêm lợi nhuận; hoàn cảnh của đau yếu khiến ngày công bị cắt; và hoàn cảnh của việc mất chổ làm, mất đi niềm hy vọng, và rồi -- tiếng gõ của nhà phiêu lưu trên cánh cửa mầu lục.

Nhưng đối với Rudolf, câu chuyện nghe như là thiên anh hùng ca thần thoại Hy Lạp, hay như những nỗI đoạn trường. Anh than cho cô:

- Cứ nghĩ đến việc cô phải trải qua nhưng cảnh như vậy…

Cô đáp một cách nghiêm trọng:

- Có những việc khác còn dữ tợn hơn nữa.

- Và cô không có thân nhân hay bạn bè trong thành phố này sao?

- Không có ai cả.

Sau một chút ngập ngừng, Rudolf nói:

- Tôi cũng cô đơn trên thế gian này.

- Tôi lấy làm vui được nghe như vậy.

Cô nói tiếp ngay sau lời anh, và vô hình dung cô làm anh vui khi nghĩ rằng cô đã chấp nhận hoàn cảnh thương đau của anh.

Thình lình hai mí mắt cô sụp xuống và cô thở dài nặng nề:

- Tôi thấy buồn ngủ quá, mà lại cảm thấy dễ chịu lắm.

Rudolf đứng dậy, với lấy cái mũ.

- Thế thì tôi phải từ giã cô. Sau một giấc ngủ dài cô sẽ khoẻ ra.

Anh đưa tay ra, cô bắt tay anh và nói “xin chào anh”. Nhưng đôi mắt cô ánh một câu hỏi thật hùng hồn, thật thẳng thắn và thống thiết khiến anh phải đáp lại bằng lời nói.

- À, tôi sẽ trở lại ngày mai để xem tình trạng của cô ra sao. Cô không thể tống
khứ tôi dễ dàng được đâu!

Và rồi, tại cánh cửa, như thể là cách anh đến với cô kém quan trọng hơn việc anh đã đến, cô hỏi:

- Tại sao anh gõ cửa phòng tôi?

Anh nhìn cô, nhớ đến mấy tấm thiệp, và bất chợt cảm thấy đau nhói vì ghen tức. Ngộ nhỡ các tấm thiệp ấy rơi vào tay những kẻ cũng có óc phiêu lưu như anh? Anh quyết định thật nhanh là không cho cô biết sự thật. Anh sẽ chẳng bao giờ cho cô biết là anh đã chủ động kiếm tìm do cơn hoạn nạn đã thúc đẩy cô. Anh nói:

- Một nhân viên điều chỉnh đàn dương cầm của công ty tôi ngụ trong toà nhà này.
Tôi nhầm lẫn gõ cửa phòng cô.

Cái anh ta nhìn thấy cuối cùng sau cánh cửa mầu xanh là đôi mắt của cô.
Đến đầu cầu thang anh dừng lại, đưa mắt tò mò nhìn quanh. Rồi anh đi dọc hành lang đến tận cùng, rồi anh đi trở lại, lên tầng lầu trên và tiếp tục xem xét trong nỗi hoang mang. Mọi cánh cửa anh thấy trong toà nhà đều sơn mầu lục.

Anh vừa đi xuống cầu thang vừa phân vân. Anh chàng Châu Phi tuyệt diệu vẫn còn đứng đấy. Rudolf đốI diện anh với tấm thiệp trên tay.

- Anh có thể cho tôi biết tại sao anh trao cho tôi hai tám thiệp này và ý nghĩa là như thế nào?

Anh chàng da đen cười toe toét dễ dãi và tỏ lộ tài quảng cáo cho nghề nghiệp bậc thầy của anh ta. Anh chỉ tay về phía xa:

- Đàng kia kìa, sếp. Nhưng em e sếp đến quá muộn rồi.

Nhìn theo tay anh chỉ, Rudolf thấy trên cánh cửa vào một nhà hát cái biển đèn điện sáng choang cho một vở kịch mới, “Cánh Cửa Mầu Lục”. Anh chàng da đen nói:

- Em nghe nói vở kịch này hay độc đáo. Nhân viên đoàn kịch thuê em một đô la để phân phát mấy tấm thiệp của họ cùng với thiệp của ông nha sĩ. Em có thể đưa cho sếp tấm thiệp nha sĩ được không?

Tại góc phố nơi Rudolf đang cư ngụ, anh dừng lại để uống một cốc bia và hút một điếu xì-gà. Khi anh bước ra với điếu xì-gà cháy trên môi, anh cài nút áo choàng lại, kéo cái mũ ngược về sau và nói một cách mạnh dạn vớI cột đèn ở góc phố:

- Bạn ạ, tôi tin rằng bàn tay của Định Mệnh đã chìa ra để dẫn tôi đến tìm nàng.

Trong những tình huống như thế này, đấy cũng là kết luận vững chắc chấp nhận Rudolf Steiner vào hàng ngũ những môn đồ đích thực của Lãng Mạn và Phiêu Lưu.
GemLeaf is offline  

Old 17-06-2006, 12:49  

Member
 
Join Date: 21-04-2005
Posts: 89
KL$: 17
Awarded 1 time(s)

Chiếc lá cuối cùng đc đưa vào sách lớp 8 \/, mà ko nhớ là lớp 8 hay 7 í nhỉ



------------------------------
Welcome to KLNet 6!
bap_rang_bo is offline  

Old 17-06-2006, 13:02  

V.I.P
 
Join Date: 10-09-2005
Posts: 1.651
KL$: 556
Awarded 32 time(s)
Sent 11 thank(s)
Received 12 thank(s)
School: PTTH Kim Liên
Class: A14 (2005-2008)
Location: Một ngôi nhà, bão dừng sau cánh cửa :)

Chính xác là lớp 8 ạ.



------------------------------
Ta sẽ nhắn ngàn lau phơ phất trắng
Khe khẽ giùm kẻo gió cuốn em đi
angry_bee is offline  

Old 27-08-2006, 10:30  

Phá sản!
 
Join Date: 07-12-2005
Posts: 51
KL$: 0

Quote:
Originally posted by Midori@07-03-2006 @ 02:13
Truyện "Món quà giáng sinh" em angry_bee post và truyện "Quà tặng của những nhà thông thái" của Gemleaf giống hệt nhau ^^
Theo mình dc b' thì tên gốc của truyện là: "The gift of the magi" dịch ra sát Tiếng Việt là: "Món quà của các đạo sĩ". Mình đã đọc rất n` sách về truyện ngắn của O. Henri và đều thấy họ dịch như vậy cả.
Đọc ở đây thấy các bạn post rẩt n` truyện của O.H thật hâm mộ wa' xá
Mà thấy các bạn post thiếu mất fần cuối cùng của truyện nên xin fép bổ sung nha'
(Fần này ko có liên quan đến nội dung của câu chuyện, nhg mà nó vẫn có trong tác fẩm, và có vẻ là vài lời nhận xét của tác giả thui )

...
Như các bạn đều biết, các vị đạo sĩ là những con người khôn ngoan, khôn ngoan tuyệt vời, đã mang quà đến tặng đức chúa hài đồng nằm trong máng lừa. Các vị ấy đã phát minh ra nghệ thuật tặng quà Noel. Các vị ấy là nghững con người khôn ngoan, nên nhất định là quà của các vị ấy cũng khôn ngoan, đem sao chép lại còn có thể có ưu điểm là đổi chác được. Ở đây, tôi đã kể lại một cách vụng về cho các bạn nghe câu chuyện không có gì là li kì về hai đứa trẻ ngốc nghếch sống trong mộy căn buồng nhỏ, đã hi sinh cho nhau một cách chẳng khôn ngoan tí nào những của cải quí giá nhất trong nhà. Nhưng để nói một lời chót với các kẻ khôn ngoan thời buổi ngày nay, ta hãy khẳng định rằng trong số tất cả những người tặng quà thì hai kẻ ấy là những người khôn ngoan nhất. Trong số tất cả những người tặng quà và nhận quà, những người như họ cũng là người khôn ngoan nhất. Ở bất cứ đâu họ cũng là nhgững người khôn ngoan nhất. Chính họ là những đạo sĩ.


Mà KL nhà mình đã ai đọc thêm cả truyện:" Buồng tầng thượng " chưa? Thấy thik truyện đấy với " Món quà của các đạo sĩ " nhứt!!!
sea_bird is offline  
 

KLNetBB - Member of Kimlien Network
Copyright © 2002-2009 by dcuongtran
Skin designed by Kusanagi - Banner designed by FunkyJan
Powered by vBulletin® Version 3.6.8
Copyright ©2000 - 2016, Jelsoft Enterprises Ltd.